I want to love you more!

Showing posts with label doi-song. Show all posts
Showing posts with label doi-song. Show all posts

Sunday, October 9, 2011

Một Bức Thư Tình



Tôi nhặt được một chiếc ví ở hè phố. Khi tôi mở ví với hy vọng tìm được manh mối nào đó về người làm rơi thì chỉ thấy 3 đôla và một bức thư nhàu nát. Phong bì đựng thư đã rách và thứ duy nhất còn đọc được là địa chỉ người gửi. Lá thư được viết năm 1944, tức là đã 60 năm về trước. Bức thư được viết bằng nét chữ con gái, bắt đầu bằng:"Anh Michael thân yêu". Đọc thư tôi biết cô gái rất đau khổ vì mẹ cô không cho cô gặp Michael nữa, nhưng cô vẫn rất yêu anh. Cô gái ký tên là Hannah. Tôi gọi tổng đài thử tìm số điện thoại của địa chỉ trên bì thư. Cô tổng đài bảo tôi đọc địa chỉ, rồi nói: - Có một số điện thoại ở địa chỉ đó, tôi sẽ gọi giúp anh xem họ có muốn liên lạc với anh không. Tôi hồi hộp chờ cô nối máy. Một người phụ nữ trả lời máy. Tôi hỏi bà có biết ai tên Hannah không. - Ôi - người phụ nữ ngạc nhiên - Chúng tôi mua lại ngôi nhà này của một gia đình, họ có con gái tên là Hannah... Nhưng đã 30 năm rồi... - Chị có biết họ chuyển đi đâu không? - Tôi vội hỏi. - Tôi chỉ nhớ là sau đó vài năm, cô Hannah phải đưa mẹ vào viện dưỡng lão... Và người phụ nữ cho tôi tên viện dưỡng lão. Khi tôi gọi điện, một cô y tá nói rằng bà cụ đã mất, nhưng cô lại cho tôi số điện thoại của con gái bà cụ - Hannah. Một lần nữa, tôi gọi điện. Nghe điện là một phụ nữ, cô ấy nói rằng bà Hannah đã vào viện dưỡng lão rồi. "Thật ngớ ngẩn" - Tôi nghĩ - "Tại sao mình lại phải mất thời gian tìm chủ nhân cho một cái ví chỉ có 3 đôla và lá thư viết cách đây 60 năm cơ chứ?” Nhưng cuối cùng tôi vẫn gọi điện đến viện dưỡng lão, và đàn ông nghe điện nói: "Đúng là ở đây có một bà cụ tên Hannah". Lúc đó là 7h tối. Tôi hỏi liệu tôi có thể đến gặp bà cụ được không. - Cũng được. Có lẽ bà cụ đang ngồi ở phòng xem TV . Tôi lập tức lái xe đến viện dưỡng lão và bắt đầu thấy tò mò. Một y sỹ dẫn tôi lên tầng 3 gặp bà Hannah. Đó là một bà cụ tóc bạc trắng và nụ cười hiền hậu. Tôi kể cho bà cụ nghe về chiếc ví và đưa bức thư ra. Ngay khi nhìn thấy bức thư, bà lặng đi, rồi thở dài: - Con trai, lá thư này là lần cuối cùng tôi liên hệ với Michael. Bà cụ cắn môi, đôi mắt đỏ lên: - Chúng tôi đã rất yêu thương nhau. Nhưng lúc đó tôi còn quá trẻ và mẹ tôi cấm tuyệt đối. Michael Goldstein là một người tuyệt vời. Tôi vẫn thường nhớ tới ông ấy. Tôi đã không kết hôn. Vì không ai làm cho tôi quên được Michael... Tôi tạm biệt bà Hannah. Khi tôi ra đến cổng, người bảo vệ hỏi: - Đó có đúng là bà cụ mà cậu cần tìm không? - Đúng, bây giờ tôi biết được cả họ tên của chủ nhân chiếc ví rồi! Tôi vừa nói vừa lấy cái ví cho người bảo vệ xem. Vừa nhìn thấy nó, người bảo vệ thốt lên: - Ôi, ví của ông Goldstein! Chỉ mỗi ông ấy còn dùng cái ví cổ lỗ sĩ này thôi! Mà lúc nào cũng làm rơi! Tôi đã nhặt được hộ ông ấy đến 3 lần rồi đấy! - Ông Goldstein là ai? - Tôi hỏi, tay bắt đầu run lên vì hồi hộp. - Một ông cụ sống trên tầng 8. Tôi cam đoan ông ấy lại làm rơi ví khi đi dạo. Tôi nhanh chóng quay lại và nhờ cô y tá đưa lên tầng 8. Trong phòng đọc sách ở tầng 8, một ông cụ đang đọc sách. Cô y tá lại gần và hỏi có phải ông lại làm rơi ví không. Ông cụ sờ vào túi và thốt lên: - Ôi, lại rơi mất thật rồi! Tôi đưa cái ví cho ông Goldstein. Ông cụ thở phào: - Đúng nó rồi! Tôi phải trả ơn cậu mới được! - Không cần đâu ạ! Nhưng cháu xin lỗi là đã đọc bức thư trong đó... Cháu chỉ định tìm xem ai rơi ví thôi. Nụ cười của ông lập tức biến mất: - Cậu đọc thư của tôi? - Nhưng nhờ thế mà cháu tìm được bà Hannah - Tôi vội "lấy công chuộc tội". Ông cụ mở to mắt: - Hannah? Cậu gặp bà ở đâu? - Ông Goldstein nắm tay tôi - Tôi rất muốn gặp bà ấy. Kể từ khi không được gặp bà ấy nữa, cuộc sống của tôi như đã kết thúc vậy. Tôi thậm chí đã không kết hôn... Tôi đưa ông Goldstein xuống tầng 3 - nơi bà Hannah ở. Phòng xem TV chỉ còn một cái đèn nhỏ. Bà Hannah đang ngồi một mình. - Bà Hannah - Cô y tá nhẹ nhàng - Bà có biết ông ấy không? Bà Hannah chỉnh lại kính, nhìn ông trong vài giây, im lặng. - Hannah, - Ông Michael thì thầm - Michael đây mà! Cả hai người như lặng đi. Và họ nắm tay nhau. 3 tuần sau, tôi nhận được thiệp mời dự đám cưới của ông Michael và bà Hannah. Đó là một lễ cưới rất đẹp. Viện dưỡng lão dành cho họ một căn phòng riêng. Và nếu bạn muốn thấy một cô dâu 75 tuổi, một chú rể 79 tuổi mà vẫn yêu thương và chăm sóc nhau như "teenagers", thì bạn rất nên gặp họ .
Arnold Fine Thục Hân dịch

Friday, September 30, 2011

Yoga-Thiền Trên Thế Giới và Với Ki-tô Giáo Ngày Nay

YOGA - THIỀN TRÊN THẾ GIỚI VÀ VỚI KITÔ GIÁO NGÀY NAY
Hoành Sơn HOÀNG SỸ QUÝ
http://www.whiteswanmusic.com/images/detail_images/dhyanamantra_200.jpg
Từ nửa thế kỷ nay, Yoga và Thiền được phổ biến rộng khắp bên Âu Mỹ và bắt đầu xâm nhập Việt Nam rồi. Vâng, tại chính Việt Nam chúng ta, sách Yoga được dịch, in bán ngày càng nhiều, đồng thời những khóa Thiền hay Yoga được tổ chức đó đây[1], và lác đác có những nhóm hay cá nhân tu sỹ Công giáo đến thọ giáo ở Trúc Lâm Thiền Viện Đà Lạt.

Do đó, không thể không tìm hiểu những kỹ thuật tu luyện rất đông phương ấy, xem ở ngọn của chúng hiện nay trên thế giới ra sao, đồng thời ở gốc là Ấn Độ và Phật giáo, bản chất và hướng nhắm của chúng là gì, có thế mới biết ứng dụng thế nào cho phù hợp với đức tin và sống đạo KTG được.

Thiền và Yoga trên thế giới xưa

Ngay từ thế kỷ III trước công nguyên, từ nước Ấn nhiều đoàn truyền (Phật) giáo đã được hoàng đế Asoka (AÌoka)[2] phái đi về hướng Tây đến Ba Tư…, về hướng Đông đến Đông Á và Đông Nam Á. Riêng ở Việt Nam thì miền Bắc tiếp nhận Đại thừa từ Trung Quốc tới, miền Nam đón Tiểu thừa từ Thái Lan, Myanmar… truyền sang. Cũng tại Việt Nam, người Chăm được Ấn hóa (cùng với nhiều nước Đông Nam Á khác) từ rất sớm cũng theo Ấn giáo và Phật giáo (riêng người Chăm Châu Đốc sau này ngả theo đạo Hồi). Chính qua Phật giáo, nhất là Thiền tông, mà việc tham thiền trở thành quen thuộc đối với chúng ta. Chỉ có Yoga (tôi có ý nói Hatha-yoga (Haưha-yoga) là món ăn còn tương đối mới lạ, dù Yoga rất gần gũi với Thiền, như sẽ nói sau này.

Ở Trung Quốc xưa, không thấy ai nhắc đến Yoga, nhưng xem ra Yoga và Tantra đã ngầm ảnh hưởng rất mạnh đến y học và luyện công qua lý thuyết về huyệt (chakra hay luân xa) và lực đạo (nadi). Riêng việc luyện nội lực của một hai phái Đạo giáo : đưa tinh lực từ dưới dọc theo xương sống đi lên về phía huyệt bách hội, thì đó là cách làm quen thuộc của ai tu theo Sakti-giáo (Tantra) ở Bắc Ấn hay Phật giáo mật tông (tantrika) ở Tây Tạng xưa. Vâng, cứ đọc sách Thái nhất kim hoa tông chỉ của Đạo giáo (nói về cách tu luyện kiểu ấy), người không biết có thể tưởng đó là một kinh thư của Tantra (Mật giáo) Ấn Độ. Việc luyện nội lực và luyện phép (cũng là của Yoga) rồi sẽ được khai thác triệt để trong các truyện tiên (luyện phép) và truyện chưởng với người khởi xướng là Kim Dung. Kim Dung cũng đả động đến “thiên lý nhĩ” (nghe xa ngàn dặm), trong khi các truyện như Phong thần thì nói nhiều đến các phép khác như “đằng vân giá vũ” đã được vẽ trong đồ họa cổ về yogin (người tu Yoga).

Về phía Tây, Thiền và Yoga cũng được truyền sang Trung Đông và Đông Âu khá sớm. Dấu vết nay còn tìm thấy trong lời cầu Định an (Hêsukhia) bên Giáo hội đông phương. Đây là lời kinh Xin Chúa thương xót (kurie eleison), lời kinh ấy có thể ngồi mà đọc, vừa đọc vừa tập trung vào rốn mà dùng ý đưa lên trái tim.[3] Và đây là phưong pháp Yoga nói đến trong Chú giải-Yoga III.1.Bẵng đi một thời gian, nay Thiền và Yoga tái xuất hiện gần đây, với một bề thế khác hẳn, bắt đầu từ Âu-Mỹ.

Thiền và Yoga bên Âu Mỹ gần đây

Yoga, và trước hết là Thiền, được Âu châu tái khám phá kể từ thế kỷ XVII qua giới nhà tu KTG. Số là những người như Di Nobili (1577-1656), rồi Monchanin và Henri Le Saux (thế kỷ XIX-XX) đã sang Tây trúc phổ đạo và phổ đạo bằng con đường hội nhập văn hóa. Họ hội nhập bằng cách tu theo kiểu các tu sỹ bỏ đời (samnyasin) bà-la-môn. Mà tu như thế thì cần cả sự hợp tác của thân thể nữa. Và đây là các tọa thế (âsana) và việc điều tiết hơi thở (prânâ-yâma).

Nhờ những nhà tiên phong này, KTG trời Âu mới hiểu được cái lợi của Thiền và Yoga. Thế là nhũng người can đảm nhất bèn mời đón các guru (sư phụ Ấn) và thiền sư Phật giáo sang dạy. Cùng lúc ấy, thấy có thị trường xuất khẩu, nhiều bậc tôn sư khác cũng tự động sang mở các khóa thiền, mở luôn thiền viện hay tu viện nữa. Trong số phải kể trước tiên đến các tu viện của tân Ấn giáo Ramakrisna Mission ở Pháp, Anh, Hoa kỳ…, trong đó người ta vừa thuyết pháp, vừa mở cửa cho những ai muốn vào tu tập một thời gian.

Từ Đông Á, một số thiền sư cũng sang thuyết pháp, dạy thiền và lập chùa. Trong số những vị được Âu Mỹ mến mộ, phải kể đến hòa thượng Thích Thanh Từ của Trúc lâm thiền viện Đà Lạt. Sau khi đã thụ giáo với các guru hay thiền sư rồi, một số tu sỹ Công giáo bắt đầu biến chế thiền để đưa thiền vào chiêm niệm chính thức KTG, trong số đó phải kể đến Thomas Merton, John Main, James Finley.

Riêng Yoga -tôi có ý nói Hatha-yoga quen thuộc- thì phổ biến nhanh và được tiếp đón nồng nhiệt như một môn thể thao (và chữa bệnh theo kiểu vật lý trị liệu) kể từ giữa thế kỷ XX. Tại Paris trong thập niên 60, hình như chỉ có những khóa Yoga do Trung tâm văn hóa Ấn Độ tổ chức, mà tôi có đến tập mấy tháng. Thế mà nay đã xuất hiện hàng chục lớp Yoga khác nhau, và có cả một Liên đoàn Yoga Pháp quốc được pháp luật công nhận.

Thật ra, các lớp Yoga, với nhiều cấp khác nhau, được mở trong khắp các thành phố lớn Âu Mỹ, và những thành phố như New York, thì các studio yoga được lập rất rất nhiều, các studio ấy được chính phủ công nhận và những người dạy trong đó được những tổ chức như Yoga Alliance, Yoga Education Instiutute cấp chứng chỉ hành nghề thày dạy Yoga. Điều ấy chứng tỏ rất đông người thích Yoga, học Yoga, luyện Yoga hằng ngày, chuyên gia bơi lội thì để cơ bắp dẻo dai, người khác để có sức khỏe bền và thân thể tráng kiện.

Thế nhưng nếu chỉ nhắm sức khỏe suông, thì ý nghĩa tôn giáo của Yoga bị quên lãng. Cũng như nếu chỉ luyện thiền để tránh stress mà không tuân giữ các quy tắc sống kèm theo, thì ích lợi sẽ rất hạn chế. Ngoài ra, có tu sỹ ngồi thiền mà lại quán (suy niệm) theo kiểu Tây, thì rút cuộc thiền chỉ là cái áo khoác không kém không hơn.

Chính vì thế, trước khi dấn thân vào những kỹ thuật ấy, cần tìm hiểu đúng bản chất của chúng cùng với cả mớ những đòi hỏi kèm theo, nhờ đó xem cái gì phù hợp để khai triển, cái gì chưa phù hợp để biến chế, làm sao cho tất cả thích ứng được với niềm tin và đường lối Phúc âm của chúng ta. Nhưng trước hết, hãy xem thực sự Thiền và Yoga đang được ứng dụng trên thế giới như thế nào đã.

Thiền và Yoga bắt đầu xâm nhập mạnh vào Phương Tây từ giữa thế kỷ XX, lúc mà giới trẻ học thức ở đó vùng lên trong các phong trào phản biện (contestation), chống lại xu hướng duy lý và những khuôn sống cứng nhắc xưa cũ, cũng như sự ngự trị của những xu hướng tân đại khác, như duy vật chất, duy kinh tế và duy hưởng thụ. Trước tiên, đó là đám hippy bên Mỹ muốn một cuộc sống phóng khoáng, không gò bó nhưng hưng phấn. Đó là đám sinh viên bất mãn thích đập phá bên Âu Châu, bắt đầu từ Paris năm 1968. Họ đập phá vì họ mong muốn một cái gì mới hẳn, nhưng lại không xác định được là gì. Riêng những nhà trí thức thì muốn phá bỏ những nền tảng cũ của văn minh tân đại, và đây là triết học duy lý khởi sụ với Descartes nó khai sinh cho khoa học và giúp phát triển nhanh công nghiệp và kinh tế Tây phương. Chống triết học duy lý nữa, một đằng thì có triết lý hiện sinh nó đề cao con người cụ thể, ở đây và lúc này (dasein), chỉ con người ấy mới có vấn đề như áo cơm, nhà ở để bận tâm (souci), chứ không phải con người trừu tượng. Đằng khác, có thuyết Mác xít nó lấy hạ tầng Nghiệm tác (Praxis) làm cơ sở, chứ không đặt cơ sở từ cao ở lý thuyết nữa. Vâng, Praxis, đó là hành động cách mạng: cứ lao mình vào cách mạng xã hội, thì rồi người ta sẽ phát hiện đúng lẽ; phải và công lý nằm ở đâu.

Lúc Tây phương không còn tin vào thế mạnh của mình nữa, cũng là lúc những con rồng và cọp Châu Á bừng thức, hiểu rằng mình cũng có những cái hay để xuất khẩu sang Âu Mỹ: cái hay ấy không nằm ở súng ống và máy móc, nhưng ở cái nó giúp con người tìm ra chân hạnh phúc của mình, và đây là minh triết (wisdom) và các kỹ thuật tu luyện đông phương. Quả thề, giàu có và quyền lực làm gì, khi mà người ta luôn bức xúc, âu lo, nhàm chán, đến nỗi phải chạy trốn bản thân (tức khỏi nội tâm) bằng cách lao mình vào hoạt động và các cuộc truy hoan, kể cả rượu và ma túy nữa! Cái mà thiền và minh triết Á đông có thể mang lại cho họ, đó là sự an lạc “mà thế gian không cho được” (Ga.14.27).

Sự an lạc này, phải tìm ở chính mình, tức ở nội tâm, chứ không phải từ những gì tích góp từ bên ngoài. Cho nên phẳi vét rỗng khỏi mọi ham muốn, bằng lòng (santosa) với những gì đơn giản thôi (Yoga), và đây cũng là “Tri túc giả phú” của Đạo đức kinh Lão tử. Minh triết phương đông còn chỉ cho thấy rằng thân xác không phải chỉ là phương thế để thụ hưởng, để rồi đi tu không thụ hưởng nữa thì buông bỏ nó đi. Vâng, để tìm an lạc bên trong, thậm chí để thoát khỏi thân xác như Yoga chủ trương, thì thân xác cũng đóng một vai trò quan trọng : và đây là những tọa thế (âsana, do AS có nghĩa là ngồi) và sự điều hòa hơi thở (prânâ-yâma) chúng khiến tâm an định, nhờ đó có thể định thần.

Bắt đầu hiểu ra đâu mới là giá trị thật của nhửng món hàng đông phương ấy, các cô cậu hippy không còn thích Yoga vì cái dáng vẻ rừng rú là lạ của nó nữa, và người ta nghiêm túc đi vào Yoga vì một cuộc sống tốt đẹp hơn (wellness), cũng như đi vào Thiền để tránh những cơn stress mà sự âu lo trong cuộc sống làm phát sinh quá dễ.

Như thế, bắt đầu được coi như một cái “mốt” là lạ, nay Yoga đã có một chỗ đứng vững vàng trong xã hội Âu Mỹ. Các lớp, trường dạy Yoga mọc lên như nấm; dạy Yoga trở thành một nghề nghiệp, và người làm thầy được cấp chứng chỉ do những tổ chức như Liên đoàn (Fédération) Yoga, Liên minh (Alliance) Yoga, Viện (Institut) Yoga…có uy tín và được pháp luật công nhận. Chả hạn như bên Pháp năm 1967, các liên đoàn huấn luyện Yoga (fédérations d’enseignement du Yoga) được chính thức nhìn nhận như những hiệp hội (associations) theo qui định của đạo luật 1901.[4]

Dẫu sao chăng nữa, từ một phương trời xa xăm được nhổ sang trồng nơi đất lạ, Yoga và Thiền không thể không biến dạng rất nhiều. Do đó, để áp dụng chúng một cách hiệu quả hơn, nên tìm lại tận gốc nguồn của chúng, Yoga thì bên Ấn Độ, Thiền thì trong các thiền viện ở Á Châu.

Yoga là gì ở nền tảng của nó


Yoga là một danh từ xuất phát từ động từ Yuj, Yunakti, Yuyoga…, có nghĩa là Buộc (buộc ách vào cổ bò), là Nối với, Đạt tới, Kết hợp. Nên xem ra nó do cùng một nguồn với những chữ có gốc Ấn-Âu như Jungere tiếng la tinh, Joindre tiếng Pháp, To join tiếng Anh. Cụ thể, Yoga biểu thị Con đường (để đạt tới), và đây là đường (hay phương cách) tu luyện. Nói cách khác, Yoga là Đạo.

Còn tiếng Yoga quen thuộc đối với người thường, nhất là người nước ngoài, thì đó là Hatha-yoga hay Yoga mãnh-vận, phải gồng mình lên mới làm nổi. Hatha-yoga có một trong những mục tiêu là luyện cho có một sức khoẻ lành mạnh và dẻo dai. Dẫu sao chăng nữa, mục đích tối hậu của mọi thứ Yoga, kể cả Hatha-yoga hay Kundalini-yoga, đều là tôn giáo: và đây là giải thoát Tinh thần (Purusa) khỏi xiềng xích của vật chất (prakriti) nói chung, đồng thời hiệp nhất hồn với Chúa (Isvara) nếu đây là Yoga chính thống.

Chính vì có nhiều loại Yoga nhưng chúng lại có những điểm tương tự, nên vào đầu công nguyên, Patanjali đã tập hợp những con đường tu luyện quen thuộc nhất thời ấy vào cuốn sách Yoga kinh điển gọi là Kinh Yoga (Yoga-sutra). Thế nhưng vì Kinh Yoga quá vắn tắt nên khó hiểu, Vyâsa phải viết tập Chú giải (Yoga-Bhâsya) vào thế kỷ IV; rồi vào thế kỷ IX Vâcaspati Misra lại viết cuốn Tattva-vaisâradi giải thích rộng hơn chính bản Bhâsya này; và càng bàn giải rộng hơn rất nhiều có bản Phụ chú của Vijnânabhiksu gọi là Yoga-vârttika viết trong thế kỷ XVI.

Trong bài này, để diễn giải vắn tắt nhưng có cơ sở về Yoga, chúng tôi sử dụng vừa Yoga-sutra với ký hiệu YS., vữa bản Yoga-Bhâsya với ký hiệu YBh., và bản Phụ chú với ký hiệu YV..

Trên lý thuyết, Yoga được coi như kỹ thuật giúp thực hiện mục tiêu mà học thuyết nhị nguyên của Sâmkhya đề ra. Theo học thuyết này thì nơi chúng ta có hai thực thể đối đầu nhau, và đây là Tinh thần Purusa bị phong tỏa bởi Vật chất Prakriti (Pra-kriti có nghĩa là cái còn nguyên sơ, chưa làm thành gì cả, nên có gì giống như Materia prima của triết học thánh Tôma, do đó chúng tôi xin phép dịch là Bản nhiên, Thuần nhiên). Chính vì thế, mỗi người phải tìm cách giải phóng Tinh thần, và đây gọi là Cô lập, Kaivalya (cô lập Tinh thần, tách nó ra khỏi mối liên hệ với Bản nhiên). Yoga cùng chủ trương nhị nguyên và cùng nhắm mục tiêu Kaivalya như thế. Chỉ trong cấu trúc tâm lý, để biểu thị tâm trí, họ lại dùng tiếng Citta thay vì tiếng Mahat (Đại) hay Buddhi của Sâmkhya,. Thêm vào đấy, nếu Sâmkhya chủ trương vô thần, thì họ lại đề cao Đức Chúa thiêng liêng (Isvâra) và dạy phải sùng mộ Ngài, đặt hết tin tưởng vào Ngài để Ngài giải thoát ta bằng ơn tuệ giác. Đồng thời, tuy không nói đến con đường Thiền (Dhyâna-yoga) của Phật giáo, nhưng trong số những điều kiện luân lý, họ lại đưa Từ-Bi-Hỉ-Xả của Phật môn vô (YS.I.33).

Nói cho đúng ra, tuy kinh thư Yoga tập trung vào Vương-đạo (Râja-yoga) vốn lấy con đường tri thức (Jnâna) cùng với tôn sùng (Bhakti) làm căn bản, nhưng cũng kể thêm làm thí dụ một số các Yoga khác. Thế rồi, tuy không nêu đích danh Hatha-yoga, những tập sách ấy cũng nói đến việc điều tức và kể ra một số các tọa thế của Hatha-yoga.

Kinh Yoga chia thành bốn tập (và các sách Chú giải hay Phụ chú…cũng chia theo như thế) : tập 1 bàn về Đại định (Samâdhi), tập 2 bàn về tu hạnh (đạo đức) và các chuẩn bị khác, tập 3 nói về Nhập định (tức Tập trung tâm trí), và tập 4 nói về việc Giải thoát gọi là Cô lập.

Tất cả những phương thức sử dụng được Kinh Yoga gồm vô trong Bát chi (Asta-anga) : (1) Giới (yama), (2) Giữ (ni-yama), Thế (tọa thế, âsana), (4) Điều tức (Prânâyâma), (5) Thoái giác (pratyâhara), (6) Định thần (Dhyâna), (7) Quán (Dhârana), (8) Đại định (samâdhi). Năm chi đầu là phương thế gián tiếp và cố gắng bên ngoài, trong khi ba chi cuối là con đường chính nó thuộc cố gắng bên trong.

Thuộc năm chi đầu, liên quan đến đức hạnh, có Giới, Thoái giác và Giữ

Giới, đó là Ngũ giới quen thuộc mà hết thảy mọi người Ấn đều tuân thủ, kể cả Phật tử, cố nhiên. Giới đầu tiên là Giới sát, A-himsâ, mà thế giới quen dịch là Bất bạo động, không những nó cấm giết, mà còn tránh nuôi hận thù; không những cấm giết người, mà cấm giết động vật nói chung.

Mahâtma Gandhi đã kết hợp Ahimsâ với luật yêu kẻ thù của Phúc âm (mà ông rất thích) để sáng tạo nên một đường lối đấu tranh có ảnh hưởng lớn trên thế giới vào giữa thế kỷ XX, và đây là Đấu tranh bất bạo động. Trung thành với đường lối này, trong khi giành độc lập cho quê hương, ông vẫn coi viên toàn quyền Ấn Độ người Anh là bạn hữu, rồi đến khi bị ám sát do hô hào Hồi (giáo)-Ấn(giáo) hòa hợp với nhau, bắt chước Chúa Giêsu, ông đã xin tha cho kẻ giết mình.

Bốn giới tiếp theo là cấm vọng ngôn (nói dối), cấm trộm cắp, cấm dâm dục, cấm tích lũy (aparigraha, do tham tiền và hà tiện) mà Phật giáo đổi lại là Giới tửu.

Ngũ giới nhắm hành vi bên ngoài, còn Thoái giác hướng về sự giữ gìn bên trong, và đây là tránh không để lục căn (indriya hay giác năng+ý thức) tiếp xúc với đối tượng của chúng là lục trần (thanh, sắc, xúc thức…+ý niệm), nhờ đó khỏi phân tâm, vấn vương, có thế mới định thần nổi (YV.2.54). Nếu Giới nói về những gì phải tránh, thì Giữ lại hướng về những gì tích cực. Và đây là Ngũ hạnh : trong sạch (sauca), bằng lòng (santosa), khổ hạnh (tapas), học hỏi (thánh kinh) và sùng mộ Chúa (YS.II,32).

Trong sạch nhắm cả bên ngoài lẫn bên trong, vì tuy bên trong mới cần, nhưng sự thanh khiết ở cơ thể lại dễ ảnh hưởng đến tâm hồn chúng ta. Do đó mà sách Ca tụng Chúa (Bhagavadd-gitâ) dạy ăn những thứ dương thanh (sattva) như rau quả, sữa thay vì thức ăn âm tà (tamas) như mắm thối và thức ăn kích động (rajas) như rượu thịt. Còn bằng lòng, thì đây là “Tri túc giả phú” của Đạo đức kinh, thế nào cũng xong, cũng đủ, không thèm muốn gì cả, và cuộc sống thanh đạm ấy làm phát sinh niềm an lạc thường hằng bên trong. Còn khổ hạnh sẽ tăng cường sức chịu đựng đối với dù nóng lạnh hay đói khát, đồng thời củng cố sự kiên định, tự chủ nó giúp tu thân và đi vào tu luyện (Yoga Bh. và V.). Riêng việc sùng mộ Chúa đi đôi với hành động vô cầu (làm vì bổn phận, chứ không vì lợi lộc chi hết) sẽ khiến Chúa ban ơn tuệ giác hòng giải thoát hành giả.

Những vần đề trên thuộc chuẩn bị xa nó bao quát hết cuộc sống. Còn chuẩn bị gần thì đi liền với tập trung. Chuẩn bị gần nằm ở tọa thế và điều hòa hơi thở.

Kinh Yoga (II.46) chỉ nói đến cách ngồi thẳng vững (sthira) và thoải mái, buông xả (sukha), còn bản chú giải của Vyâsa thì kể ra hằng chục tọa thế có tác dụng như trên, mà đứng đầu là tọa thế Hoa sen (padma). Những cách ngồi như thế, thường phải cố gắng và luyện tập lâu mới thành.[5] Nhưng khi ngồi dễ dàng rồi, thì sẽ thấy đây là cách ngồi giúp tập trung rất tốt. Có guru còn giải thích bằng mục tiêu tập trung nhân điện, không để thoát ra ngoài tí nào. Có điều để ngồi vững và thoải mái như thế, thì sống lưng phải thật ngay, đầu hơi cúi để cần cổ theo cùng một đường thẳng đứng với xương sống.[6]

Ngồi vững xong, phải điều hòa hơi thở. Trong đời sống thường, ta dễ quên thở và thở ra không hết, hít vào không đủ sâu, khiến phổi thành như cái ao tù, khí trong đó dơ bẩn, khiến máu và cơ thể cũng đục theo luôn. Để thở sâu như vậy, Yoga cung cấp hằng chục cách thở khác nhau. Nhưng nếu chỉ nhắm định thần, thì chỉ cần một hai cách đơn giản; cũng như để làm trong sạch khí huyết thì thở sâu vài chục lần cũng đủ rồi. Kế đó, phải thở thật êm, nhẹ lại khiến tim cũng đập êm nhẹ luôn và tâm không biến động nữa, có thế mới tập trung được (II.53).

Những cách vận tức đặc biệt, theo YV., còn sinh ra những phép thần thông (siddhi) như bay (YV.II.51) và thính nhãn, nhĩ, xúc, thấu thị YV.III.36) . Thật ra, thì hiện tượng thân thể nhẹ và nổi lên trong không khí (lévitation), thì trong huyền học KTG cũng gặp, và ngày nay đôi khi cũng còn gặp nơi các Yogi. Thật ra, các bức tranh cổ cũng vẽ họ bay như thế. Theo tôi, rất có thể hiện tượng “khinh thân” (lévitation) là cơ sở mà các truyện thần tiên Trung Quốc dựa vào để thổi phồng thành phép đằng vân giá vũ. Cũng như hiện tượng thính nhãn, nhĩ được Kim Dung khai thác trong Thiên long bát bộ hay Lục mạch thần kiếm thành Thiên lý nhãn và Thiên lý nhĩ luôn. Ngoài ra, một số yogi siêu quần có thể điều tức đến giai đoạn bốn là ngưng thở hoàn toàn, ngưng cả giờ, ngày, thậm chí một năm luôn (YV.II.51-52), và người ta có thể chôn ông dưới đất, để sau khi đào lên và chà sát một lúc là (ông) tỉnh lại.

Có điều những thành tựu lạ (siddhi) này, hãy để chúng tự nhiên đến và tự nhiên đi, chứ nếu ham thích mà bận tâm vào thì chúng sẽ cản trở hành giả tiến tới đại định và giải thoát (YV.III.37).

Liền sau khi ngồi hoa sen và thở êm nhẹ lại rồi, hành giả hãy tập trung hay quán (dhârana). Đối tượng của tập trung là một điểm (YS.III.1) trên người hay bên ngoài. Điểm trên người có thể là rốn, hoa sen-trái tim, sống mũi, giữa hai con mắt…(YBh.III.1). Đức Phật cũng dạy tập trung vào hơi thở ra, vô. Tập trung như thế là cốt để tâm trí khỏi rối lên như chợ trời, với cả ngàn vạn những ý tưởng và ảnh tượng chen lấn nhau. Làm sao để chỉ có một dòng chảy, một sợi chỉ xuyên suốt (quán). Khi tâm định dược rồi, cũng có thể đưa một câu chú (mantra) vào mà niệm, dùng một hình tượng Đức Chúa hay Brahman để quán tưởng.

Hễ định được vô một điểm… hơi lâu, thì đó là thiền (dhyâna). Sẽ có đại định khi một cái gì đó (?) tự hiển sáng lên trong khi đối tượng (dòng quán tưởng?) không còn nữa (YBh. và YV. III.2-3). Định được như thế sẽ sinh ra sự an lạc gọi là hạnh (ânanda) nó phát triển thành định an thiêng liêng tinh thuần. Trong khi ấy, ranh giới giữa Ngã với cái Thể bao la siêu việt cũng mờ biến đi (III.2-3).

Thật ra, thì hướng nhắm gần của Yoga là thoát ra khỏi dòng biến dịch bên ngoài và sự biến động (tư tưởng) bên trong. Nhưng đây chỉ là điều kiện cho cái kinh nghiệm khác thường là Đại định ấy. Đại định bắt đầu còn ít nhiều niệm lý (samprajnâta) làm sườn. Và nếu đây là kinh nghiệm về Brahman hay Đức Chúa, thì Ngài còn xuất hiện với hình tượng như của một người, và đây là chỗ thô của Bản nhiên. Hình tượng thô ấy có thể chuyển thành phiêu hốt, mờ ảo, và đây chỗ tinh vi (suksma) của prakriti, đi đôi với tính dương thanh (sattva) của tam cách (tri-guna). Đại định hữu niệm sẽ chuyển thành siêu niệm (a-samprajnâta) lúc chỉ còn kinh nghiệm (kinh nghiệm về Chúa chả hạn) mà không kèm theo ý niệm hay hình tượng nào. Chắc đây có gì giống với huyền kiến tuệ trí (vision intellectuelle) mà thánh Tiên sa Avila nói đến. Dù sao, ở cấp siêu niệm này, samâdhi vẫn còn phân thành hai cấp, cấp dưới với ít nhiều mầm mống (bija) do dư vị dương trần còn sót, do đó hành giả chưa thoát khỏi luân hồi; còn ở cấp trên thì mọi vương nhiễm đã sạch hẳn, và đây là Đại định siêu niệm không mầm mống, khiến xác hễ đi hết trớn sống của nó, thì Tinh thần được giải phóng hoàn toàn ngay.

Về mặt ý thức, thì kinh nghiệm trong đại định là trực giác, mà đối tượng không phải cái gì trừu tượng, tổng quát nữa, nhưng cụ thể và thiêng liêng, trong khi đối tượng và chủ thể thành một với nhau. Theo tôi hiểu, thì đây là một kinh nghiệm chủ thể quan (nơi chủ thể hay subject, chứ không phải subjective theo nghĩa thường hiểu). Ngã và Chúa thành một với nhau có thể được hiểu như một sự hợp nhất huyền nhiệm. Mà thực ra, Yoga chủ trương hữu thần, nên cũng chủ trương vẫn còn phân biệt Chúa-hồn sau tình trạng giải thoát. Ngay cả nhiều triết gia Vedânta, như Ramânuja và Badhva cũng nghĩ như vậy. Cũng về ý thức nữa, trong đại định, vào một lúc nào đó, sự hiểu biết (huyền nhiệm) có thể phụt lên như tia chớp (sphuta), và đây là Mây-dharma (Dharma-megha) nó khiến Chân lý hiển sáng toàn cảnh. Chúng ta nên nhớ, theo các nhà huyền nhiệm học Công giáo như Tiên sa Avila và Inhã Loyola, đôi khi trong huyền nghiệm cũng xảy ra hiện tượng giống thế, khiến cho hành giả đột nhiên hiểu tất cả, cái mà cả đời học hỏi cũng không đạt được. Cố nhiên đây không phải là kiến thức khoa học, mà một thứ ánh sáng (đức tin) siêu nhiên nó đọi vào mọi hiểu biết sẵn có của hành giả để chúng biến hình trong một sắc thái (ý nghĩa) hoàn toàn mới.

Nếu trong KTG, ở cấp cuối của huyền nghiệm là hôn nhân thiêng liêng, chiêm không còn tách khỏi cuộc sống bình thường nữa (hành giả vẫn hoạt động, mà vẫn cảm nghiệm sâu xa sự có mặt của Thiên Chúa), thì ở cấp cuối của huyền học Yoga hay Thiền, trạng thái cũng được diễn tả gần như vậy. Và đây là bức đồ họa thứ mười trong Thập ngưu đồ Phật giáo Trung hoa, có tên là “Thõng tay vào chợ”.

Sở dĩ chúng tôi so sánh được huyền nghiệm Công giáo với huyền nghiệm Phật giáo và Yoga, vì sau công đồng Vatican II, nhất là sau Thượng hội đồng giám mục Châu Á năm 1998, chúng ta đã hiểu ra rằng Chúa Thánh Thần có thể hoạt động “cách nào đó” trong các tôn giáo lớn để cứu vớt “những người lòng ngay” ở đó. Mà nếu họ được cứu, dù cách nào đó”, họ cũng sống trong ân sủng Chúa Kytô, để rồi tu luyện lên cao, họ có thể được ơn huyền nghiệm Thiên Chúa (nơi và qua Chúa Kytô), dù khó khăn hơn và khiếm khuyết hơn chúng ta nhiều.

Thiền : hướng đi và kỹ thuật

Thiền là một trong những đường tu Phật giáo[7], nên có thể coi Thiền là một loại hình Yoga, nhất là khi các đức Từ-bi-hỉ-xả của Phật giáo cũng được mang vô Yoga-sutra (I.33). Giống như Râja-yoga, Thiền-đạo không sử dụng các thế nhiêu khê của Yoga mãnh vận, mà chỉ ngồi Hoa sen hoặc bán kiết (siddhâsana). Về vận tức cũng thế, thiền sư chỉ vận tức kiểu đơn giản, và vận tức mấy phút thôi để thanh lọc cơ thể trước khi điều hòa hơi thở cho êm nhẹ giúp dễ tập trung.

Còn khi quán, có thể lấy (hình tượng) Đức Phật làm đối tượng tập trung, nhưng về sau, phải vượt trên mọi niệm tưởng để đi vào vô thanh vô sắc, hầu đạt sự hừng sáng sâu cao của Chân lý, nhờ đó giác ngộ. Xem ra, hơn mọi con đường khác, Phật giáo nhấn vào tính vô thường, tính Không của tất cả, dù của thực tại bên ngoài, dù của cái tâm bên trong.

Ứng dụng Thiền và Yoga trong KTGYoga được trình bày đầy đủ là trong những tập kinh thư nói trên, chứ không phải thứ Yoga bề ngoài viết cho người Âu Mỹ đọc. Trong loại sách này, ít nhất niềm tin tôn giáo đặc thù của Yoga không được đề cập tới. Do đó, không có gì ngăn trở người Công giáo luyện Yoga. Vâng, người ta chỉ trình bày các thế và ích lợi của mỗi thế, kể cả ích lợi về mặt trị liệu và phòng bệnh. Như thế, Yoga như một thứ thể dục chỉ giúp ta có một sức khoẻ lành mạnh và dẻo dai. Cũng có sách Yoga nói thêm về cách ăn uống và cách sống của người luyện Yoga, một cách đơn giản thôi, chứ không cầu kỳ như trong kinh thư. Dẫu sao, ăn uống dương thanh, có chừng mực và sống tiết chế được như thế, thì chẳng những sức khỏe tốt, mà đức hạnh cũng tăng tiến luôn.

Chỉ nên lưu ý rằng: luyện Yoga thì các động tác phải chậm, nghịch lại với thể thao Tây phuơng vốn nghiêng về nhanh, mạnh và dồn dập, do đó hại cho cả nội tạng lẫn thần kinh. Lại nữa, nếu giữ được tâm thanh lặng theo tinh thần Yoga, thì đây là cách giảm stress (bấn tâm) và làm phát sinh niềm an lạc thanh tao.

Với ai muốn tu thân, tốt nhất hãy vào thiền. Thiền đạo giữ hết cả Bát chi của Yoga, nhưng chú trọng nhất đến nội tâm. Vì thiền hướng về Vô, cả Thiền lẫn Yoga đều cố đạt vô niệm tưởng, thế mà KTG lại là Đạo nhập thể và huyền tích, có cả trong lần ngoài, cả hình thức lẫn siêu hình thức, nên trước khi đi vào vô sắc tướng và trực giác theo thiền môn, hãy suy niệm về Phúc âm một thời gian cho thấm sâu đã. Thiền sau đó sẽ đến giúp ta có được những cảm nhận Phúc âm một cách đơn giản hơn, kế đó rời bỏ niệm tưởng cũng là phần nào đi vào đêm tối (nuits obscures) để chuẩn bị cho một thứ tri thức và tình cảm khác hẳn trong huyền nghiệm.

Và bây giờ, để bắt đầu tham thiền, chúng ta hãy làm như sau:

Trước hết, tập ngồi hoa sen, hay ít là bán kiết. Hoa sen thì ngửa bàn chân phải gác lên đùi trái, ngửa bàn chân trái gác lên đùi phải. Bán kiết chỉ gác một bàn chân thôi. Gác chân như thế hơi đau đấy, mà phải luyện sao hết đau thì tập trung mới dễ. Thường thì phụ nữ và trẻ em luyện rất nhanh, chứ không như đám mày râu. Có điều khi tập trung, các ông, nhất là khi có tuổi rồi, lại dễ tập trung hơn. Để dễ ngồi, có thể ngồi trên một cái gối nhỏ. Có guru khuyên nên ngồi trên tấm len hay da thú để nhân điện khỏi thoát ra ngoài. Vì cói cũng giữ nhiệt và truyền điện, nên hẳn cũng có tác dụng ấy. Có điều ngồi trên chiếu cói thì đau.

Ngồi, phải liệu sao cho xương sống thẳng đứng. Để được thế, hãy tỳ hết trọng lượng trên một mình xương cùng thôi, do đó phải ưỡn người lên, đồng thời hơi cúi đầu tí ti cho xương cần cổ cũng trên đường thẳng đứng ấy. Để dễ tập ngồi thẳng, có thể tựa thật sát lưng vào tường. Khi ngồi thẳng đã quen, thì xoay lưng lại (tức diện bích) như quen làm ở chùa, để khỏi phân tâm lúc tập trung. Sau khi ngồi xong, nên khẽ rùng mình một cái để các cơ bắp không cần đến chùng lỏng hết ra. Còn hai bàn tay khi ấy thì hoặc úp trên hai đầu gối, hoặc ngửa trên hai đầu gối nhưng với ngón trỏ và ngón cái bấm vào nhau (để nhân điện khỏi thoát ra, như có người nói), hoặc lồng lên nhau để ngửa dưới rốn. Ngồi xong, đến lượt vận tức, rồi điều tức. Vận tức thì phải thở sâu, thở gắng. Vận tức kiểu thiền môn thì đơn giản thôi : hít 1 thì, nín 1 hay 2 thì, thở (ra) 1 thì, nín tiếp 1 hay 2 thì. Khi nín sau hít, có thể phình bụng ra. Khi nín sau thở ra, có thể thót bụng tới tận xương lồng ngực để ép khí ra hết.[8]

Khi hơi thở đã nhẹ êm lại rồi, hành giả có thể tập trung. Hãy tập trung vào sống mũi giữa hai con mắt, tập trung vào hơi thở vô ra, tập trung vào giữa (hoa sen-)trái tim, tập trung vô ngọn đèn nhỏ síu sát mặt đất, để xa 1m50 là vừa,v.v… Sau khi tâm trí tạm định được rồi, có thể chuyển sự tập trung sang một câu niệm thiêng liêng, mantra. Mantra nên đơn giản, dễ đọc, đọc như trôi đi rất trơn. Có người như John Main chọn câu Maranatha (Xin Chúa hãy đến). Theo tôi, cũng có thể chọn câu niệm truyền thống của Giáo hội Phương Đông là Chúa ôi (hít vô) thương xót (thở ra) (Kurie eleison), hay dài hơn : Giêsu Con Thiên Chúa xin thương tôi là kẻ có tội. Hoặc câu của James Finley (trong Christian meditation): (Ta) Chúa yêu con (hít vô), Con yêu Chúa (thở ra)… Có người cho rằng chỉ cần âm thanh là đủ, không cần ý nghĩa của câu niệm. Theo tôi, nếu âm thanh cũng đủ, thì đâu cần chọn câu này thay vì câu kia nữa. Có điều câu niệm là câu quen thuộc, quen cả ý nghĩa luôn, nên nếu đọc lên đều đều, thì ý nghĩa tôn giáo của nó vẫn phảng phất, và thế là đủ cho tâm hồn ta chìm vô cõi thiêng liêng, ngày càng vô thanh vô sắc. Cũng theo cùng một hướng vô thanh sắc và thoát tục như thế, hành giả có thể quán về Nước chảy mây trôi để cảm nghiệm tính bể dâu của tất cả, cùng lúc với sự Vĩnh hằng. Hoặc quán tưởng Thiên Chúa như một luồng sáng ấm áp và bao la đang trùm xuống trên tôi, trên chúng tôi (hay Thiên Chúa đang nói với tôi từ những sự vật bao quanh tôi, nhất là hoa lá), và tôi sẽ cảm thấy mình nhỏ bé đi và buông mình trong tay Cha xót thương, che chở…Vâng, để quán hay niệm trên hướng thiền thì tất cả phải đơn giản như thế, đồng thời căng hướng về vô thanh vô sắc hơn là niệm lý rõ ràng. Do đó, như trên kia đã nói, trước khi vào thiền, phải suy niệm nhiều về Phúc âm, hòng nhiễm lấy tinh thần Phúc âm một cách sâu xa trước đã. Để khi đi vào siêu niệm lý và trực nghiệm cụ thể như thế, thì trực giác này cũng xuôi theo đúng dòng chảy Tin mừng. Ngoài ra, trong thời gian chuyển sang tham thiền, người ta vẫn có thể lúc thì tham thiền khi lại trở về với suy niệm.

Ngoài lúc tham thiền (hay luyện Yoga), cần phải sống tinh thần thiền, cũng là tinh thần Yoga luôn. Nghĩa là trong công việc hãy luôn luôn bình tĩnh, và để lòng luôn an tịnh như thế, phải năng nhớ thở và kiểm soát hơi thở sao cho êm nhẹ, điều hòa. Còn ăn uống thì chọn những gì dương thanh, sống thì sống thanh thoát trong những tâm tình Từ(thương yêu) - bi(thương xót) - hỉ(vui) - xả(thoát tục). Vâng, hãy vui sống, nhân hậu, không tham sân và bằng lòng với những gì hiện có…

Nếu ai đó muốn luyện thiền ở chùa để có bầu khí, thì đây là điều rất tốt. Nhưng hãy chọn một chùa thiền tông thì hơn, vì trong thiền tông, người ta không quan tâm nhiều đến giáo lý. Dĩ nhiên là trong tiếp xúc hàng ngày, hành giả Công giáo không thể không gặp thứ ngôn ngữ và cách ứng xử của Phật môn, do đó ít nhiều chịu ảnh hưởng. Vậy, trước khi đến sống chùa, nên học giáo lý cho sâu, sống đạo cho vững, và khi ở chùa, đừng quên năng cầu nguyện.
Tác giả: Hoàng Sỹ Quý, SJ.


*************************************************

Khỉ Thành Người - Không Do Tiến Hóa

KHỈ THÀNH NGƯỜI: KHÔNG DO TIẾN HÓA
Hoành Sơn Hoàng Sĩ Quý
http://www2.vietbao.vn/images/viet2/khoa-hoc/20754457_images1448732_khi.jpg
Khoa học xem ra không sai khi chủ trương có tiến hóa từ con khỉ, thậm chí từ Quantum sơ thủy (initial), đến con người. Nhưng nay thì phải chỉnh lại tí ti : Không phải tới con người, mà tới gần con người thôi. Bởi nếu như trên, thì con người thuộc hoàn toàn về guồng máy và bị chi phối bởi phần cứng (hardware) là cấu trúc mạng thần kinh, đâu còn tự do để sáng tạo, nhờ đó định đoạt về mình và thay đổi luôn luôn cách sống của mình, nhờ đó có lịch sử và văn hóa?

Chính từ phi biệt định mới có con người
Biến hóa trong khoáng giới xem ra đáng mặt tiến hóa nhất. Chứ sang đến sinh giới, thì biến hóa giàu tính ngẫu hứng hơn. Nếu tương quan trong khoáng giới được quy định dễ dàng trong hệ thống và quy luật, với quy luật có thể được biểu diễn bằng những công thức toán, thì sự sống lại trình bày một bộ mặt phóng khoáng và linh hoạt khác hẳn, khi mà mỗi sinh vật quy kết vào mình mọi chức năng và hoạt động trong tiến trình cá thể hóa, khiến nó có khả năng tự sống và trao đổi với môi trường, rồi tự nhân bản (auto-réplique) và truyền sinh trong tiến trình bảo vệ mình và giống nòi của mình. Vâng, không như khoáng vật bị tổ chức từ ngoài mình, và cũng chỉ phản ứng do tác động từ ngoài luôn, thì sinh vật trái lại, tự tổ chức và tự sống cho mình và vì giống nòi của mình.
Con người càng là một với mình hơn nữa khi nó có khả năng hành động tự do, nhờ đó tự định đoạt lấy mình. Không phải nó chỉ định đoạt hành vi và cách sống của nó, mà còn tự lập trình cho cách sống người và hiện hữu người ấy.
Quả thế, lối hiện hữu người khác hẳn cách hiện hữu thú. Hiện hữu của thú được quyết định trước bởi bản năng, nghĩa là bởi lập trình di truyền giống loại hoàn toàn, nhưng cũng nhờ thế mà trao đổi của nó với môi trường thành ổn định. Trái lại, hiện hữu đích thực con người vuột ra khỏi chu trình Lặp lại (repetition) đơn điệu nói trên, để ngỏ cửa 180o cho vô hạn những khả thể ở tương lai phía trước. Cũng là ngỏ cửa cho cả những dự án lẫn đe dọa bất ngờ, và sự bấp bênh ấy là số phận, cái số phận nó đi đôi với phẩm giá. Để rồi chính sự mò mẫm tự mình để giải quyết các vấn đề của mình ấy sẽ lập trình dần cho hiện hữu người của nó, cho hiện tại lẫn tương lai xa xăm của con cháu nó. Loài người vì thế biến hoá mãi mãi, vô kỳ tận, biến hóa không phải để không còn là người, mà để luôn còn là người. Vâng, con người không thuần là kết quả của biệt định do thiên nhiên, cũng không thuần là đích và đỉnh của tiến hóa thiên nhiên : con người còn là tác giả của chính mình, bên cạnh những gì nó đón nhận từ thiên nhiên ấy.
Quả thật, không như J.-B. Robinet chủ trương, rằng con người là đỉnh tiến hóa của thiên nhiên, E. Kant (đồng thời với ông) đã trả về cho con người cái triều thiên mà Robinet đặt lầm trên đầu của thiên nhiên ấy. Vâng theo Kant, cái cao quý của con người không do biệt định bởi thiên nhiên, mà giải định :
–“Sự giải phóng (ấy) gỡ con người ra khỏi lòng mẹ thiên nhiên, và đây là niềm kiêu hãnh nó đi đôi với cơ nguy. Bởi lẽ thiên nhiên đã đẩy con người ra khỏi cuộc sống thơ ngây bình hòa của một đứa trẻ, như thể ra khỏi khu vườn trong đó nó gặp thấy trong vô tư những gì giúp nó tồn tại dễ dàng, để rơi vào một thế giới mênh mông với biết bao ưu tư, lao khổ và tai ương không lường trước đón chờ nó.”
Quả thật, bước tiến từ con thú sang con người không thể hiểu trong ngôn từ của Liên tục cho bằng của Cắt đứt (rupture), nghĩa là Trần trụi nguyên thủy (manque originaire). Đúng như Nietzche nói:
–“Ở chính chỗ là sinh vật dang dở, mà con người mang lấy trong mình cái khả thể làm người.”
Để thấy rõ hơn chân lý ấy, có thể xem xét hai yếu tố người ta quen đánh giá là vật báu chúng đặc điểm hóa con người : cấu trúc đặc biệt não bộ và ngôn ngữ.
Những thoái lui cần thiết cho phát sinh hình thái não người
Xưa kia, để giải thích cho khả năng tư tưởng, người ta nhấn vào tầm vóc não bộ : Não đã lớn dần lên, từ cá đến người, nhất là ở phía trán. Có điều, não người phát triển chủ yếu ở những vùng thần kinh, mà rất nhiều vùng như thế, ở đó các chức năng để ngỏ, nghĩa là “để giấy trắng”, không biệt định gì trước. Như thế để chính hoạt động sau đó sẽ tạo hình, nghĩa là vẽ nên đường nét và xác định hướng đi. Và như thế để cái sản nghiệp hình thái (morphologic) não không phải là quà tặng của thiên nhiên cho bằng sản phẩm của cha ông chúng ta.
Quả đúng là những vùng bỏ ngỏ về chức năng ấy đã phát triển và góp phần chính yếu vào sự nở lớn khối não hôm nay. Còn phần không phát triển là phần thiên nhiên lập trình sẵn cho các chức năng nhất định, với thần kinh kết nối vô cùng chặt chẽ với nhau và với toàn cơ thể. Đó cũng là vùng mà ta có chung với con thú, vùng dành cho các chức năng thực vật, chức năng cơ động và tiếp nhận cảm giác…
Nói cách khác, không phải mạng lưới thần kinh do tiến hóa sự sống làm thành đã cho phép các ký hiệu tư tưởng chạy trên , mà chính các ký hiệu tư tưởng chạy trên đã dệt nên mạng lưới thần kinh ấy, đồng thời xác định và ổn định trên đó chức năng của từng vùng. Đúng như J.-P. Changeux nói :
–“Tổng thể di truyền cung cấp một mạng lưới với đường nét lờ mờ, mà hoạt động sau đó sẽ vạch rõ những góc cạnh.”
Ngày nay, tuy hình thái và chức năng xác định rồi, nhưng đường nét tuy đã rõ mà vẫn còn mờ đủ, để cho phép khám phá và những hướng đi mới, khiến con người có khả năng học tập suốt đời và canh tân luôn mãi, qua các thế hệ. Cái khả năng học tập đến vô tận ấy khiến con người là loài trưởng thành rất chậm, và ngày càng chậm thêm (trước kia ở tuổi 15, rồi 18, 21, và bây giờ là 25…).
Và như thế, ở bộ não con người, có một sự dung hợp và bổ túc cho nhau giữa một bên là các yếu tố tiên thiên của biệt định di truyền, bên kia là các yếu tố hậu thiên của thủ đắc từ mọi thứ ứng phó và sống nghiệm. Những ứng phó, học tập và thử nghiệm ấy sẽ tạo sinh và củng cố cho những kết nối (synapse) thần kinh mới, đồng thới biến đổi các allen di truyền, khiến cho lập trình ngày càng đa dạng và tinh tế thêm, trong đó kỳ diệu nhất có lẽ là ngôn ngữ.

Từ kẽ hở của tự nhiên mà ngôn ngữ khai sinh
Hẳn ta sẽ bỡ ngỡ khi biết rằng học nói có một “trần” (plafond) thời gian cho nó : Nếu không được học nói (và có môi trường “người” để học) trước lúc lên tám, đứa bé sẽ mất phần lớn khả năng để học. Và đây là trường hợp , vô cùng hiếm hoi, của những “đứa bé sói”.
Như trường hợp hai bé gái, Amala và Kamala, tìm thấy bên Ấn giữa bầy sói ngày 4 tháng 11 năm 1920 . Chúng chỉ có thể tru như đồng bạn sói, chứ phát thành âm thanh (son) thì không. May vì còn bé, nên sau này đứa sống sót là Kamala học nói và hội nhập xã hội gần như người thường được (Science et Vie , Avril 1994, tr.70-71).
Tại sao thế ?
Nếu bảo học nói được là do bản tính, thì sao khả năng ấy lại không lớn lên ở tuổi trưởng thành, với bộ não đã phát triển đầy đủ? Vâng, tại sao cấu trúc não bộ lại chỉ dành những “lỗ châu mai” cho học bắn trong ngôn ngữ? Và tại sao những “bé sói” nói trên, cùng với những ai khác cũng trục trặc về khả năng ngôn ngữ, lại cùng với trục trặc này, còn mắc thêm một trục trặc khác : khả năng giao lưu (với loài người) ? Để cái biến chủng “người rừng” ấy “không những đưa họ xuống cuối hạng giống người, mà còn cuối thang giống vật luôn”, khi mà con thú sinh ra có ngay đầy đủ khả năng giao lưu với đồng loại, chứ không phải tự thủ đắc lấy như con người.

Hãy trở về với Học nói
Nói, đứa bé không chỉ lặp lại giáo trình như con vẹt, mà còn cấu hợp các từ bằng ngàn cách khác nhau, đồng thời nối ký hiệu với bề sâu của nó là ý nghĩa. Phải chăng ngữ pháp là bẩm sinh, như Noam Chomsky nghĩ ? Và cái gọi là bẩm sinh ấy được lập trình bởi gen?
Năm 1998, người ta đã định vị được một gen : SPEECH ONE trên cánh tay dài của nhiễm sắc thể số 7. Lại trước đó, nghiên cứu một gia đình (đánh dấu bằng ký hiệu KE) bị rối loạn di truyền về ngôn ngữ, người ta nhận ra rất nhiều suy sụp :
dyspraxie: khó phát ra âm và lời
dysphasie: Khó lập câu, nên liên quan đến ngữ pháp
thêm suy yếu trí tuệ : của phân nửa thành viên gia đình
Cũng năm 1998, tạp chí Nature Neuroscience phát hiện qua nghiên cứu : những đứa bé hai tuổi chậm nói, nếu song sinh, thì tác nhân môi trường chỉ chiếm 18% ( tức cốt yếu là do gen) , trong khi tỷ lệ ấy là 69% (nên cốt yếu là do môi trường) ở những đứa bé không song sinh. Điều này cho thấy vấn đề học nói vừa là của gen, vừa là của môi trường luôn. (Xx. Science et Vie, Mars 2000, tr.89-99).
Vâng, do gen (người) mà đứa bé học nói dễ , học tiếng Baba, Mama ngay khi mới đẻ , để rồi từ tháng 28, học và nhớ các từ rất mau. Chẳng những học từ và hiểu nghĩa, mà về quy tắc đặt câu thì dù chẳng được dạy, nó vẫn làm chủ được chúng chỉ trong 36 tháng.
Còn tại sao khả năng ngôn ngữ lại đi đôi với và phụ thuộc vào khả năng giao tiếp ?
Xem ra nằm sâu dưới khả năng ngôn ngữ, có một cấu trúc hướng về giao lưu và truyền thông, từ đó làm vọt lên những cố gắng về mã hóa ký hiệu trong ngôn ngữ, khiến chức năng ngôn ngữ chỉ hiển động được giữa một môi trường người. Vâng, ngôn ngữ là một chức năng, chứ không phải một cơ quan. Cơ quan trong ngôn ngữ, chỉ có những cơ quan hữu ích cho việc phát âm, âm chứ chưa phải lời, và đó là phổi, thanh quản, vòm miệng, lưỡi, mũi. Còn bộ não, kể cả bán não trái, cũng chỉ là điểm tựa cho chức năng ngôn ngữ thôi. Chính sự truyền thông, được điều khiển từ những nguyên lý tổ chức ngôn ngữ, đã biệt định (tức cài chương trình) trên bộ não, khiến đứa trẻ sinh ra có thể học nói ngay và học giữa môi trường người. Vâng, chính ngôn ngữ nó tạo sinh chính mình trên hệ thần kinh của chúng ta.
Như thế, khác với các chức năng khác, như chức năng thực vật đã được di truyền cài sẵn một cách nhất định, không thay đổi, ngôn ngữ giả thiết một phi biệt định về chức năng, ngỏ cửa cho những biệt định hay chương trình sẽ được cài. Và như thế có một liên hệ vòng tròn giữa một bên là phần não bỏ ngỏ về chức năng, bên kia là hoạt động nó biệt định chức năng, đồng thời hình thái hóa phần não ấy. Hình thái hóa bằng cách tạo ra hay làm mất đi những kết nối (synapse, có từ 1000 đến 100.000 kết nối cho mỗi nơ-ron). Hình thái hóa nữa, có lẽ bằng tạo ra hay diệt đi những allen cho mỗi gen, đồng thời biến đổi cách thể hiện (nổi hay chìm…) của chúng.
Phải chăng sự ngỏ cửa về chức năng của phần não nói trên nhất định sẽ dẫn đến phát minh ngôn ngữ ? Hay ngôn ngữ chỉ là phát minh tình cờ do thúc bách của truyền thông và của hoàn thiện truyền thông ? Chỉ biết rằng, để tư tưởng và tiến hóa lớn như ngày nay, con người không thể thiếu ngôn ngữ, kể cả nói lẫn viết. Mà ngôn ngữ, thì không dân tộc nào là không có, khiến ngôn ngữ hình như đi đôi với con người, là yếu tố không thể thiếu để chúng ta sống cho ra người.
Có điều nó do con người tạo nên bằng kinh nghiệm và lao tác phối hợp của cả một dân tộc xuyên qua nhiều thế hệ, để rồi với đứa bé học nói, nó phải dựa vào thông tin trong giao lưu , vào giáo dục trên cơ sở của một di sản và hệ thống văn hóa. Di sản ấy, từ cha ông nhiều đời để lại, nó kết đọng trong truyền thống bên ngoài và di truyền bên trong, giúp cho đứa bé giữa môi trường đó học tiếng mẹ đẻ rất nhanh, như một tiềm năng bẩm sinh vậy.
Sự tiến hóa của ngôn ngữ giữa giống người là vô tận, cũng vô tận như sự tiến hóa của loài người dựa vào ngôn ngữ. Mà sự tiến hóa này diễn ra đồng thời trên cả hai mặt chủng loại (philogeny) và cá thể (ontogeny).

Kỹ tác nói chung với tự nhiên
Ngôn ngữ không phải là tạo sinh của thiên nhiên, mà kỹ tác (artefact) của con người. Kỹ tác cơ bản vào bậc nhất, nhưng không phải duy nhất. Vậy kỹ tác là gì và chúng đóng vai trò gì trong hiện hữu người chúng ta?
Như chúng ta thấy, con thú sinh ra từ thiên nhiên, nên ngụp lặn thong dong giữa thiên nhiên bởi được tự nhiên nơi nó (tức bản năng) hướng dẫn và chỉ huy, mà tự nhiên này lại là thành phần của thiên nhiên ấy. Chứ con người thì không được ưu đãi như vậy. Nếu con dê sinh ra đã biết đi và gặm lá, con ong sinh ra mấy ngày đã biết bay, gom phấn hoa và làm tổ… , thì để hội nhập vào môi trường, con người cần thời gian, phải học tập nhiều và học tập với đồng loại. Mau lắm cũng phải “ba tháng biết lẫy, bảy tháng biết bò”, rồi chập chững học đi, bập bẹ học nói, mà đấy mới chỉ là “khai vị” cho cuộc sống thôi. Còn phải luyện suy tư đi đôi với trau dồi kiến thức, tập giao tiếp và đối xử từ trong gia đình ra ngoài xã hội…Vì lắm thứ để chuẩn bị làm người và vào đời như thế, nên con người trưởng thành rất chậm, tới cả vài chục năm, chứ không như con vật chỉ mấy ngày hay dăm bảy tháng.
Đấy mới chỉ là cá thể người, nói chi đến giống người. Để trưởng thành như giống người, tiên tổ chúng ta đã trải qua gần triệu năm mò mẫm, để chỉ cách đây mấy chục hay trăm ngàn năm, nó mới bắt đầu biết đẽo đá làm công cụ, biết nguệch ngoạc trên vách hang thành mấy hình thú để yểm. Còn biết nói và suy tư, biết trồng trọt, chăn nuôi và đúc đồng làm khí giới,v.v., thì chỉ mới đây, mấy ngàn năm nay thôi.
Số là vì, giữa con người và thiên nhiên có một khoảng cách, và khoảng cách ấy ngày càng lớn thêm với những kỹ tác phát minh giúp chúng ta sống xứng như những con người. Vâng, chính nhờ khoảng cách ấy mới có những khe hở (của tự nhiên nơi thân xác chúng ta) trong biệt định chức năng, để rồi bằng mò mẫm và hoạt động của mình, chúng ta lập trình cho cơ thể, cũng là biệt định cho lối sống của chúng ta, cho lối sống ấy ngày càng nhân văn thêm mãi mãi.
Kỹ tác chúng giúp ta giữ một khoảng cách với thiên nhiên, kỹ tác ấy bắt đầu với chế tác công cụ, với sự thuần hóa cây cỏ trong canh nông và thuần hóa thú vật trong chăn nuôi. Từ nguyên liệu là thiên nhiên, chúng ta đang biến chế thiên nhiên vì một cuộc sống tốt đẹp hơn của chính mình.
Công cụ bắt đầu với vật cầm tay, để thay thế cho tay mà nắm bắt, đánh đập xa hơn và khéo, mạnh hơn, công cụ thủ công ấy rồi sẽ được thay thế bởi bán tự động bằng then máy (mecanism), toàn tự động bằng máy no, và siêu tự động với hướng dẫn từ xa (tele-guide), điều khiển từ xa (tele-command) và điều khiển gián tiếp bằng những chương trình cài đặt trước.Kỹ tác với cuộc sống người rồi ra sẽ phát triển thành những hệ thống và guồng máy, như hệ thống viễn thông, bộ máy truyền hình cáp. Thậm chí còn làm nên những thế giới, như thế giới điện ảnh trong đó những con người trong ngành tương tác với máy và sống với nhau bằng luật sống riêng, ngôn ngữ riêng.
Không những kỹ tác làm thành các tổ chức như trên, chúng còn bao trùm loài người dưới bóng, tác động vào tâm tư và cuộc sống của họ, khiến sống hiện nay với họ không thể thiếu thực phẩm chế biến và nước uống tinh chế; không thể thiếu nhà bêtông cao tầng cùng với điện, truyền hình; không thể thiếu xe hơi, điện thoại di động, cùng với máy tính và internet. Vâng, đời sống tràn ngập bởi kỹ tác và nhu cầu kỹ tác, khiến con người như thở hít chúng và bị chúng đeo cứng lấy. Vâng, người ta bắt gặp chúng mọi nơi, trong ngôn ngữ, ước mơ và ham muốn, trong hành động và suy tư của mình. Và như thế, kỹ tác vừa người-hóa chúng ta khi đưa chúng ta vượt lên trên thiên nhiên, vừa phi người-hóa chúng ta khi đưa máy móc vào thế chỗ thiên nhiên trên bàn thờ tâm hồn.
Theo Auguste Comte, nhờ Khoa học mà Nhân loại (Humanité) đang thế chỗ quỷ thần của hiện tượng thiên nhiên trong một thứ Tôn giáo mới. Thế mà giờ đây, lại chính là Kỹ thuật và Kỹ nghệ cùng với Hưởng thụ vô giới hạn mà nó cung cấp đang thống trị loài người và tha-hóa chúng ta. Và cùng thống trị với nó là tinh thần Xảo. Ngày xưa, điểm quy chiếu cho cách nhìn đời là Thiên nhiên và Tự nhiên. Ngay cả Lễ và Nhạc, Đức Khổng cũng quy chúng về lẽ vận hành của Trời đất : Lễ thì phân ra theo trời đất cho có trật tự, Nhạc thì hợp lại như trời đất để có hòa an (Nhạc giả thiên địa chi hòa dã, Lễ giả thiên địa chi tự dã; Nhạc giả vi đồng, Lễ giả ư dị: Lễ ký). Và để càng hợp hơn với cách làm của Trời đất, Lão tử đề nghị một Hóa dân (cải hóa dân chúng) bằng Vô vi (Đạo thường vô vi), giúp dân sống sao cho Thuần phác, Tự nhiên, tránh xa những gì là Xảo (Tuyệt xảo : Đạo đức kinh XIX).
Quả như hiền nhân xưa quen nghĩ, những gì do chế biến mà thành thì thiếu cái khí vị tự nhiên, khiến sống nhiều với kỹ tác thì lòng bớt đi sự thuần phác và tương giao thiếu chân tình. Chả có thế mà chữ Xảo vừa có nghĩa là Khéo làm trong Xảo công, Xảo thủ, vừa có nghĩa là Giả dối trong Xảo hoạt, Xảo ngôn.May mà ngày nay, sau khi đã sản xuất tràn lan, người ta chợt khám phá thấy năng lượng đang thiếu dần cho sự tăng tốc sản xuất, và sự tăng tốc sản xuất đi đôi với tăng tốc tiêu thụ đang làm ô nhiễm bầu khí, đất đai và dòng nước, trong khi tầng áo giáp ô-dôn bị thủng khiến ta đang tiêu diệt chính mình.
Thêm vào đấy, nhờ phát triển kỹ tác khiến khoa học khám phá được vào chiều rộng của không gian, bề sâu của vật chất và sự sống, mà cái cảm giác yên ổn của thời trung cổ và cận đại đã mất dần trong chúng ta. Vâng, trái đất của chúng ta không là một trung tâm lớn và vững chắc của vũ trụ nữa. Nó chỉ là cục đá nhỏ trong thái dương hệ, cũng như thái dương hệ này là nắm đá nhỏ trên lề của giải Ngân hà, và thiên hà trên rìa của một thế giới rộng tới hai chục tỷ năm ánh sáng . Sự sống, có lẽ chỉ xuất hiện ở trái đát nhỏ bé của chúng ta nhờ các điều kiện vật lý hãn hữu riêng của nó, sự sống ấy cũng “mành treo sợi tóc” trên những điều kiện vật lý rất mong manh, khiến chỉ cần một “hắt hơi” của thái dương, một “nhảy mũi” của mấy hạt cơ bản nhỏ xíu, là nó có thể tan như khói như mây.Những phát hiện trên khiến con người hôm nay trở lại với lòng tôn quý sự sống và thiên nhiên, lòng tôn quý đã có từ xa xưa nơi cổ nhân Phương đông khi họ cấm làm hại sinh vật với luật Ahimsâ bên Ấn, với quan niệm “Thiên địa chi đại đức viết Sinh” bên Trung hoa, với việc làm nhà dưới bóng cây và dựa vào phong thủy.
Nói thế không phải là chê bai kỹ tác (artefacts), mà muốn đặt kỹ tác vào đúng vị trí của nó là bộc lộ chiều cao của con người, chứ không phải đặt con người dưới bóng nó. Để được như thế, không thể ta không giữ một khoảng cách với máy móc và gần lại với Tự nhiên và Thiên nhiên. Để giữ một khoảng cách với công cụ thì phải từng lúc bất cần chúng, cũng là bất cần đến một số tiện nghi. Còn để gần gũi hơn với thiên nhiên thì phải năng rời thành phố đến nghỉ ngơi ở đồng quê, ven biển, núi rừng.
Một trong những cách gần lại với thiên nhiên, đó là chiêm ngưỡng nghệ thuật. Nếu kỹ thuật cho một cái nhìn thực dụng hay lôdích về thế giới và cuộc sống, thì nghệ thuật lại dựa trên trực cảm và hướng về tự nhiên , đưa con người gần lại với thiên nhiên.Đặc biệt khi đây là nghệ thuật Đông Á. Bởi, như J. Maritain nghĩ, nói đến Đẹp là nói đến “sự thấm nhập vào nhau giữa thiên nhiên với con người”. “Một cách huyền nhiệm”. Như “phép mầu” ấy !
Tác giả: Hoàng Sỹ Quý, SJ.

*********************************************

Tuesday, March 22, 2011

Kinh Nghiệm một tháng với người phong (2005)

CÙNG CHÚA GIÊ-SU BƯỚC TRONG ĐAU KHỔ


Sau một thời gian dài sống trong bầu không khí thinh lặng và cầu nguyện ở Tập Viện, tôi được sai đi tiếp xúc thực tế với tiến trình hai tháng Thực Nghiệm. Và đó cũng phần nào thỏa mãn khao khát của tôi là phục vụ người nghèo dưới ánh sáng mới sau một đoạn đường được huấn luyện và được gần gũi thân mật với Chúa Giêsu, đặc biệt sau ba mươi ngày đại Linh Thao.
Tác giả bài chia sẻ “Cùng Chúa Giêsu Bước Trong Đau Khổ” nói về kinh nghiệm của mình tại Trung Tâm Điều Dưỡng Phong Bến Sắn. Lần đầu gặp gỡ, tiếp xúc, đụng chạm đến các bệnh nhân tôi cảm thấy hơi sợ và rùng mình. Rồi ngày ngày qua đi, tôi cảm nhận được nhiều niềm vui. Nhìn lại những con người tôi đã gặp, tôi nhận ra nơi họ thiếu vắng sự thông cảm và đón nhận của người khác biết dường nào! Sự đau khổ mà họ phải chịu là cả cơ thể ngoại tại lẫn bên trong…


Bước đầu quả thật đầy khó khăn trong việc dấn thân vào những môi trường cụ thể. Nhưng tôi cảm tạ Chúa rất nhiều vì Ngài đã cho tôi có cơ hội học tập về lòng tin tưởng vào Tình Yêu cũng như vào sự dẫn dắt của Chúa Thánh Thần. Thật là một điều kỳ diệu và đầy ý nghĩa hơn nữa là tôi lên đường ngay ngày Chúa Nhật Lễ Lá. Lời Chúa hôm nay là một mào đầu và là ngọn đèn hướng dẫn tôi trong hai tháng gian nan khám phá tâm tư của Chúa Giêsu nơi những hoàn cảnh mới và con người nghèo khổ.
“Anh em hãy cầm lấy mà ăn, đây là Mình Thầy
Anh em hãy câm lấy mà uống, vì đây là Máu Thầy
Máu Giao Ước đổ ra cho muôn người được tha tội” (Mt. 26,26-28).

Trước khi chuyến hành trình bắt đầu tôi suy nghĩ vẩn vơ rất nhiều về cuộc thực nghiệm, về bản thân, về môi trường và về con người tôi sẽ gặp gỡ, chia sẻ và phục vụ…Nhớ lại kinh nghiệm của Thánh I-Nhã, ngài cũng dự định bao điều trong cuộc hoán cải nhưng thực tế sau đó thì có được như thế đâu. Điều này thức tỉnh tôi trở lại hiện hữu hiện tại của mình để rèn luyện sự tin tưởng vào Thiên Chúa. Do vậy tôi nhiều lần đến trước Chúa Giê-su Thánh Thể để tạ ơn Ngài và xin Ngài chúc lành tôi cùng người anh em đồng hành với tôi trên bước đường sứ vụ nầy.

Anh em chúng tôi khởi hành đi Bến Sắn vào lúc 7:30 ngày 20/3/2005 nhưng phải vất vả lắm mới đến được nơi cần đến(12:00) vì sự cố “lạc đường”. Trước mắt tôi hiện lên dòng chữ : Trung Tâm Điều Dưỡng Bệnh Phong Bến Sắn. Một cảm giác vừa vui vừa sợ dâng lên trong tâm hồn tôi. Một trong những kinh nghiệm sau một tháng ở đây, đó là nghiệm thấy sự bất công rất lớn trong xã hội mà tôi, một Kitô hữu phải có nhiệm vụ thăng tiến công bằng. Sự bất công đó dẫn đến rất nhiều đau khổ, có khi tuyệt vọng của bao con người. Bên cạnh đó, bàn tay yêu thương của Chúa Giêsu, Đấng cứu chữa người bệnh phong và đưa họ vào cuộc sống cộng đồng như trong Tin Mừng đã nhiều lần thuật lại, đang tiếp tục giang ra ôm lấy họ và cứu họ thoát khỏi khổ ải.

Nơi đây là một khu đất rộng(96 mẫu, số liệu cũ) nhưng biệt lập. Trung tâm này chẳng khác một xã hội thu nhỏ. Trong đó bệnh viện có tất cả bảy khoa: khoa ngoại, nội, phản ứng phong, dưỡng lão nam, dưỡng lão nữ, tâm thần,và lao.

Khoa đầu tiên mà tôi đến làm việc là các khoa dưỡng lão. Lần đầu gặp gỡ tiếp xúc, đụng chạm đến các bệnh nhân tôi cảm thấy hơi sợ và rùng mình. Rồi ngày ngày qua đi tôi nhận được nhiều niềm vui. Nhìn lại những con người tôi đã gặp, tôi nhận ra họ thiếu vắng sự thông cảm và đón nhận của người khác biết dường nào. Sự đau khổ mà họ phải chịu là cả cơ thể ngoại tại và tinh thần bên trong. Xung quanh tôi là những thân thể dị dạng và tàn phế. Lòng tôi cũng trào dâng sự xót xa. Chia sẻ với họ gì đây? Chúa hiện diện trong cuộc đời họ như thế nào?

Cảm tạ Chúa đã đưa tôi đến đây bình an và được tận mắt chứng kiến những con người với những cảnh đời rất kém may mắn. Họ sống với căn bệnh mà tôi chỉ được nghe nói mà chưa bao giờ được thấy, một căn bệnh mà nói ai cũng ghê tởm, muốn xa lánh ngay không cần biết người mắc bệnh đó là ai. Tôi sẽ sống và phục vụ họ với tình yêu mà Chúa muốn, tôi tự nhủ.

Những ngày sau đó công việc của tôi bắt đầu hòa nhịp với đời sống ở đây. Tôi thấy họ thân thiện hơn và ít e dè hơn. Tôi cũng vậy. Các cụ hỏi tôi vào đây có sợ không. Tôi trả lời là con không sợ. Thế là họ coi chúng tôi đến đây như những cảm tử quân của Chúa Giêsu vậy. Nhưng điều này chẳng có ý nghĩa gì nếu tôi không đến với họ bằng tình yêu của Chúa Giêsu và với lòng thương cảm trước nỗi đau của họ. Căn bệnh quái ác đã cướp đi nơi họ bao là của cải, công danh, sự kính trọng và thương yêu của người khác; cũng như họ bị mất đi nhiều bộ phận trên thân thể xinh đẹp của họ. Họ trở nên những con người cùng cực nhất xã hội, tay trắng tay với cơ thể tàn phế. Ông Cường, một con người bị mù cả hai mắt, liệt cả người, suốt mấy chục năm nay ông nằm đấy như một cái xác biết cử động đôi chút. Ăn uống, vệ sinh tắm rửa…tất cả đều phó thác cho người. Và nhiều người khác nữa giống như ông: ông Bảy, ông già “run”, bà Bảy, bà Năm… Họ chẳng còn gì để sống ngoài hơi thở Chúa ban và cơm nước do người ta đút.

Tệ hơn nữa căn bệnh quái gở này còn biến họ thành những người xa lạ và thậm chí họ còn bị coi như con thú, con quỉ cần loại ra khỏi xã hội này đã đẩy họ đến con đường cùng. Một cô chia sẻ với tôi: khi người ta biết cô bị bệnh, họ coi cô như rát rưởi và đuổi cô đi như đuổi tà. Cô đã tìm đến cái chết ba lần nhưng đều không thành sự. Cuối cùng cô nhận ra Chúa vẫn còn yêu thương cô, đưa cô đến đây và cô đã sống. Trường hợp khác, vì thấy người ta đem chôn sống bất cứ ai bị nhiễm thứ bệnh nan y này, nên khi thấy mình bị bệnh, bác đã giấu cho đến khi không còn có thể giấu được nữa, bác đã trốn vào rừng sống trong sự cô đơn và tuyệt vọng… Rồi có người còn chia sẻ: khi biết họ mắc bệnh, gia đình nói với họ: Mày hãy đi, đi đâu cũng được càng xa càng tốt để họ hàng khỏi bị mang tiếng là có người mắc bệnh phong… Tôi cứ tưởng những chuyện này diễn trong những thế kỷ trước chứ không diễn ra trong xã hội hiện giờ. Thế nhưng thực tế vẫn còn như vậy đấy.

Bị người khác xa lánh loại bỏ, bị gia đình cắt đứt… Tôi bị như chìm ngập trong những lời chia sẻ đầy nước mắt như thế. Tôi chỉ biết “đờ” người mà nghe để biết Chúa hành động trên cuộc đời của họ như thế nào, để hiểu và thương cảm họ nhiều hơn. Điều gì đã giúp họ vượt qua những bi thảm và sống vui vẻ, hiếu khách, quảng đại như ngày nay? Vâng, đó là chính sự thông cảm và sự dũng cảm của những con người mang danh Chúa Kitô, nhưng trên hết là nhờ tin vào tình yêu của Thiên Chúa. Quả vậy, chẳng có đau khổ nào sánh bằng khi con người ta sống mà không có sự thông cảm và chia sẻ của người khác hoặc là không nhận ra điều đó. Nhờ cảm kích tình thương của các Sr. (Dòng Nữ Tử Bác Ái) dành cho họ, họ quyết tâm làm lại cuộc đời. Đặc biệt là họ chấp nhận cái mà họ hiện là, để khởi sự một sự sống mới. Với những đôi bàn tay không còn ngón, với những đôi chân dùng dao chặt không chảy máu (chân giả) và với động lực sống mới là Đức Tin, họ lao vào làm việc. Lúc đầu là họ cuốc đất trồng khoai, trồng mì, trồng cao su, rồi đốn củi đem xuống chợ bán… để nuôi sống mình và gia đình. Giờ thì họ làm nhiều việc khác rồi nhưng cũng cần sự nổ lực không kém. Mặc dầu vẫn che giấu căn bệnh của mình khi tiếp xúc với người khác nhưng họ không còn trong tuyệt vọng nữa. Vì có người nhận ra rằng cho dù không ai đón nhận họ đi chăng nữa, họ vẫn tin Chúa vẫn không bỏ rơi họ. Và đó là động lực cho họ sống với cả con người bị tàn nhưng không phế. (Tâm tư của những con người lớn tuổi).

Chú Hùng, một người bệnh sống ở đây hơn 20 năm, tâm sự: Niềm vui nhất và cũng là sức mạnh giúp chú vượt qua những ngày đau khổ nhất là Đức Tin và tình yêu thương đùm bọc của các Dì cũng như của những người cùng cảnh ngộ. Đức Tin quả là kỳ diệu. Khi vào đây chú mới được học giáo lý và được rửa tội. Đúng là có Chúa thì mọi sự ra khác. Chú trở nên chấp nhận vác Thập giá mà Chúa đã trao cho. Và hay hơn là chú còn chia sẻ: Chú bị vậy nhưng còn thấy nhiều người khác tàn phế và đau khổ hơn mình nhiều; mình được Chúa thương nhiều. Và chú đã dốc hết sức lực còn lại để sống, để lao động và phục vụ.

Đấy! những con người chấp nhận thánh ý của Thiên Chúa trên cuộc đời mình và nhờ đó họ cảm thấy đời đáng sống hơn. Mặc dầu cảnh ngộ bi thương nhưng họ vẫn tin cậy nơi Chúa. Bàn tay của Thiên Chúa, tôi nhận thấy, vẫn hằng dẫn đưa họ, yêu thương họ. Và bản thân tôi nữa, dù tôi như thế nào, Chúa vẫn kêu gọi và cứu tôi. Tôi thấy mình thật nhỏ nhen, bất lực trước ân huệ to lớn Chúa dành cho tôi.Bài học mà những người bệnh phong là kiên nhẫn chịu đựng, chấp nhận mình để vâng theo thánh ý Thiên Chúa. Và câu lời Chúa: Ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo Thầy, trở nên sức mạnh cho công việc, suy nghĩ và tâm hồn tôi. Tôi là chi mà đòi hỏi Chúa thực hiện ý của mình. Và tôi cũng học nhiều ở nơi họ sự quảng đại, hiếu khách, rộng mở. Chúa đang huấn luyện tôi cách sống, cách phục vụ những con người nghèo cùng cực. Trước hết là hoán cải con tim để biết hướng về người khác, đặc biệt là người nghèo:

Này là Mình Thầy, tự hiến vì anh em
Này là Máu Thầy đổ ra để cứu con khỏi hướng về mình.

Quay về với đời sống cụ thể trong một tháng ở đây. Công việc của tôi là thăm hỏi trò chuyện, hớt tóc, cắt móng tay móng chân (vì có một số người vẫn còn), tắm rửa những người liệt, rửa vết thương, băng vết thương, cắt lỗ đáo, đút cơm… Tôi thấy mình quá liều và hơi chủ quan khi tiếp xúc với các bệnh nhân, đặc biệt đối với những vết thương của họ. Có lần bị các Dì khuyên phải chú ý giữ gìn sức khỏe cho mình. Lúc nhớ lại tôi cảm thấy hơi rợn người và sợ. Trung bình mỗi ngày hớt tóc cho hai người là ít và tắm rửa các bệnh nhân thì thường xuyên. Có những vết thương lở loét đang rỉ máu hoặc những mùi hôi thối bốc lên từ những vết thương ấy, từ những chiếc áo thấm mùi ghẻ lở, và những nơi tế nhị khác, thấy mà sợ. Khi vào việc thì nỗi sợ chẳng còn nữa có khi tôi liều dùng cả tay trần mà chà rửa họ, gần gũi đúc cơm, đúc nước cho họ. Có người tỏ ra không hài lòng đối với sự ân cần chăm sóc của mình. Hôm nọ một bà nói với tôi: Thầy chăm sóc “bả” như thế, khi thầy đi lấy ai chăm sóc “bả”. Rồi quay sang bà cụ quát: Còn cái bà này nhũng nhẻo với thầy quá. Thầy mà về bà chỉ có nước đói. Đúng thật là khó, tự nhiên mình gây cớ cho người khác phạm tội. Đó có thể là lòng ganh tị chăng? Cũng có thể bà ấy nói đúng? Nhưng trước mặt Chúa, tôi tin Thánh Thần sẽ hướng dẫn tôi nên làm gì. Và tôi tiếp tục quan tâm và chăm sóc, đặc biệt đối với những người liệt và những người rất đáng quan tâm khác. Khuôn mặt Chúa Giêsu đang hiện diện ở nơi họ. Người cùng với họ mang lấy những nỗi bất hạnh đắng cay. Chúa Giêsu chịu sỉ nhục khinh chê và đang vác Thập giá ở nơi ấy. Người vẫn đang lê bước với thân hình tiều tụy và đầy thương tích. Tôi thấy Chúa hiện diện nơi tôi khi đến với họ và Chúa hiện diện nơi họ để dạy tôi học biết vui lòng nhận lấy Thập giá trong đời sống để nên đồng hình đồng dạng với Người và tin tưởng vào Chúa trong mọi cơn gian nan thử thách.

Những con người mắc bệnh chịu nhiều đau khổ và bị xã hội ruồng bỏ đã đành. Nhưng những con cháu của họ không mắc bệnh vẫn đang mang lấy những kỳ thị, thành kiến của con người và xã hội hôm nay. Sự loại trừ đó đã làm cho bao bạn trẻ lạc vào con đường tội lỗi. Sự bất cần đời biến họ thành những kẻ nhàn rỗi, quậy phá, chơi bời, ăn cắp ăn trộm và thậm chí còn tự tử nữa. Đi học khó khăn thì chớ mà khi kiếm việc làm khó khăn càng tăng lên gấp bội. Vì cha mẹ hiếm có con do bệnh gây ra, nên một số người trong họ chiều chuộng con cái quá đáng. Do vậy nhiều bạn trẻ rất ít ý thức đến tinh thần đạo đức mà chỉ chú trọng đến tiền và tiền. Tự nhiên tôi thấy mình giới hạn vô cùng. Đọc Tin Mừng, tôi thấy nhiều lần các thánh sử nhắc đến việc Chúa Giêsu chữa người phong ( Mt 8,1- 4; Mc 1,40 – 45; Lc 5, 12 – 16; Lc 17, 11 – 19). Và hôm nay Chúa vẫn đang ở với họ để cứu chữa họ nơi nguyện đường, nơi các bí tích, nơi những con người quảng đại dâng hiến như các Sr… Để chữa những người bệnh phong và đưa họ trở lại với cuộc sống bình thường, trước hết Chúa sẽ chữa những tâm hồn của những người đang mắc một căn bệnh nghiêm trọng hơn, đó là thiếu thông cảm và bác ái, tôi thiết nghĩ như vậy. Trong đó có tâm hồn tôi. Tôi phải luôn đến với Chúa để biết loại bỏ những thành kiến với bất cứ điều gì để mở lòng ra với bất kỳ ai dù họ là người như thế nào. Nhìn cuộc sống với nhãn quan của Chúa Giêsu, đó là điều mà tôi phải sống.

Lạy Chúa Giêsu, cảm tạ Chúa rất nhiều vì đã ban cho con có cơ hội đến với những con người nghèo, bạn của Chúa. Xin cho con biết nhận lấy những tâm tư và tình yêu của Chúa vào suy nghĩ và con tim của con ngày một kết hợp với Chúa nhiều hơn, đặc biệt là hướng trọn tâm trí về Ngài; đồng thời con cũng biết mở lòng ra với mọi người, để những gì con được Chúa dạy và sẽ còn tiếp tục được dạy giúp con làm vinh danh Thiên Chúa hơn.

Cuối tháng 4 năm 2005
J.B. Phan Đức Định
......................................................................................................................

Sunday, March 20, 2011

Bài Học Cho Cuộc Sống

BÀI HỌC CHO CUỘC SỐNG

Đôi khi có một số người lướt qua cuộc đời bạn và ngay tức khắc bạn nhận ra rằng sự có mặt của họ ý nghĩa như thế nào.

Họ đã dạy bạn những bài học, đã giúp bạn nhận ra giá trị của chính mình hoặc trở thành con người mà bạn từng mơ ước . Có lẽ bạn sẽ không biết được những con người này từ đâu đến (bạn cùng phòng,người hàng xóm, vị giáo sư, người bạn mất liên lạc từ lâu hay thậm chí là một người hoàn toàn xa lạ). Nhưng khi bạn thờ ơ với họ, hãy nhớ rằng trong từng khoảnh khắc họ sẽ ảnh hưởng rất sâu sắc đến cuộc đời bạn .

Ban đầu sự việc xảy ra trông có vẻ kinh khủng , đau khổ và bất công , nhưng khi lấy tấm gương của cuộc đời ra để đối chiếu, bạn sẽ hiểu được là nếu không có những giây phút ấy để bạn vượt qua mọi khó khăn thì bạn khó có thể thấy được tài năng, sức mạnh, ý chí và tấm lòng của bạn. Mọi việc đều diễn ra có chủ đích mà không có gì gọi là tình cờ hay may rủi cả. Bệnh tật, tổn thương trong tình yêu , giây phút tuyệt vời nhất của cuộc sống bị đánh cắp hoặc mọi thứ ngu ngốc khác đã xãy đến với bạn , hãy nhớ rằng đó là bài học quí giá. Nếu không có nó cuộc đời này chỉ là một lối đi thẳng tắp , một con đường mà không có đích đến cũng như bạn sồng từng ngày mà không ước mơ. Thật sự con đường đó rất an toàn và dễ chịu, nhưng sẽ rất nhàm chán và vô nghĩa .

Những người bạn gặp sẽ ảnh hưởng đến đến cuộc đời bạn. Thành công hay thất bại, thậm chí là những kinh nghiệm tồi tệ nhất cũng chính là bài học đáng giá nhất , sẽ giúp bạn nhận ra được giá trị của chính mình. Nếu có ai đó làm tổn thương bạn, phản bội bạn hay lợi dụng tấm lòng của bạn, hãy tha thứ cho họ bởi vì chính họ đã giúp bạn nhận ra được ý nghĩa của sự chân thật và hơn nữa, bạn biết rộng mở tấm lòng với ai đó. Nhưng nếu có ai thương yêu bạn chân thành , hãy yêu thương họ một cách vô điều kiện, không chỉ đơn thuần là ho đã yêu bạn mà họ đang dạy bạn cách để yêu.

Hãy trân trọng khoảnh khắc và hãy ghi nhớ từng khoảnh khắc những cái mà sau này bạn không còn có cơ hội để trải qua nữa. Tiếp xúc với những người mà bạn chưa từng nói chuyện, và biết lắng nghe. Hãy để trái tim biết yêu thương người khác. Bầu trời cao vời vợi vì thế hãy ngẩng đầu nhìn lên, tự tin vào bản thân. Hãy lắng nghe nhịp đập của trái tim mình: "Bạn là một cá nhân tuyệt vời. Tự tin lên và trân trọng bản thân bạn, vì nếu bạn không tin bạn thì ai sẽ làm điều ấy?".

Hãy sở hữu cuộc sống của bạn và đừng bao giờ hối tiếc về lối sống ấy. Nếu bạn thương yêu ai đó thì hãy nói cho họ biết, dù rằng sẽ bị từ chối nhưng nó có thể làm cho một trái tim tan nát có thể đập trở lại.

(Theo bản dịch của Phan Đào Khương Như)
...............................................................................................

Monday, March 14, 2011

ĐÔI MẮT NGƯỜI NGHÈO, ĐÔI MẮT NGƯỜI YÊU

ĐÔI MẮT NGƯỜI NGHÈO, ĐÔI MẮT NGƯỜI YÊU
by Fr Nguyen Cong Doan, SJ

Chắc nhiều lần bạn đã qua gần những bãi rác, bạn đã thấy những người đàn ông, đàn bà, trẻ em ăn mặc rách rưới, mặt mũi chân tay lem luốc, tay xách cái bao bố, tay cầm cây sắt, vừa đi vừa bới, đôi mắt chăm chú tìm những thứ gì còn có thể bán được cho tiệm ve chai: nào sắt vụn, dép cũ, ve chai... và họ sống nhờ những thứ tìm ở các đống rác.

Tôi thì hằng ngày thấy những người đồng cảnh ngộ đi tìm rau dại để nấu canh, vì không có tiền mua rau muống... Có nhiều thứ mình cứ tưởng chỉ là cỏ dại, thế nhưng lại là những thứ rau "trời cho" người nghèo để ăn. Bạn có thể tưởng tượng loại cây cảnh thường trồng quanh bồn bông giống như rau dền (nên người ta gọi là rau dền cảnh), lại có thể ăn sống hoặc nấu canh. Khi ở trong hoàn cảnh có tiền mà không thể mua được rau ăn, được mấy người bạn làm vườn thẩy cho một nắm rau này, ăn thấy ngon hơn xà-lách Ðà-Lạt bạn ạ.

Nói thế không phải để làm bạn mủi lòng đâu, nhưng để chỉ cho bạn thấy đôi mắt người nghèo, vì tôi nghĩ rằng trong mọi lãnh vực của cuộc sống, chúng mình cần có cái nhìn của đôi mắt người nghèo để khám phá ra những của cải vật chất, tinh thần và thiêng liêng trong những cái tầm thường nhỏ bé nhất, nhờ đó chúng ta trở nên phong phú hơn.

Bạn biết không, Chúa Giêsu cũng đã có đôi mắt của người nghèo. Ngài đã phát hiện vẻ đẹp và ý nghĩa của những sinh hoạt bình thường nhất như: thắp đèn, làm bánh, cất nhà... những đồ vật nhỏ bé nhất: đồng xu, hạt cải, chim sẻ, cáo... cho tới những sinh hoạt đặc biệt như: chiến tranh, xây tháp...

Ngài đã dùng những đồ vật, những hình ảnh nhỏ bé, tầm thường nhất, để nói lên những điều cao siêu nhất. Ngài đã nhìn thấy vẻ đẹp, sự cao quý ở trong những con người mà người đương thời coi rẻ, miệt thị, đồng thời Ngài thấu suốt những cái xấu xa được che giấu đàng sau những cung cách, lời nói kiểu điệu, những bộ áo giàu sang, đạo mạo. Ngài đã biết vá áo, biết vận dụng cái mới cái cũ trong những đống gỗ, những đồ dùng, đồ nghề, những chiếc áo... nên Ngài mới ví người nghiên cứu sách thánh (scribes) của Nước Trời, như người biết vận dụng cả cái mới cái cũ trong kho tàng của mình.

Bạn ơi, có nhiều khi chúng ta học thói nhà giàu xài sang, không quan tâm tới những cái nhỏ bé trong cuộc sống hằng ngày. Ðụng cái gì không vừa ý một chút là bỏ. Người giàu cầm quả táo có vết sâu ăn liền vứt bỏ nguyên trái, người nghèo thì bình tĩnh cắt bỏ chỗ sâu, hoặc cắn quanh mà ăn, chừa chỗ bị sâu lại mà vứt đi.

Bạn có thể nghĩ đến mọi lãnh vực khác: thời giờ, bạn bè, công việc, học hành, đào tạo... Rất nhiều khi chúng ta phải bằng lòng với những con người, những dụng cụ... những phương tiện rất hạn hẹp theo kiểu nhà nghèo: "khéo ăn thì no, khéo co thì ấm".

Thì giờ chẳng hạn. Có khi do nghề nghiệp, do hoàn cảnh, thì giờ của bạn bị xé vụn. Nhiều khi bạn có thể bực mình vì bị quấy rầy, bị lỡ xe, bị mất điện... Nếu những lúc ấy bạn bực mình, bạn sẽ đánh mất chút thì giờ còn lại. Còn nếu bạn biết quý từng giây phút thì bạn đừng uổng phí nó cho nỗi bực mình, cho lời than van. Bạn hãy bình tĩnh đón nhận những giây phút không bị quấy rầy và tận dụng, giống như lúc làm bài thi càng về cuối càng phải bình tĩnh để đừng viết sai, mất thì giờ sửa... Những lúc chờ xe, chờ đèn xanh, kẹt xe chẳng hạn, nếu bạn bực bội bạn sẽ mất những giây phút đó và những giây phút sau với bao nghị lực lãng phí. Bạn có thể sử dụng những giây phút ấy nhiều cách, cầu nguyện chẳng hạn...

Trong công việc, học tập, đào tạo, bạn cũng cần đôi mắt người nghèo để biết quí những dụng cụ, những phương tiện, những người bạn, người thầy bạn đang có, dù không hoàn hảo như bạn muốn, nhưng nếu bạn biết đón nhận và sử dụng thì vẫn tốt hơn là bạn chờ cho tới khi có phương tiện, có người như ý bạn muốn.

Cuối cùng, trong đời sống kết hiệp với Chúa, nếu bạn có đôi mắt người nghèo, bạn sẽ khám phá ra nhiều cái, nhiều dịp có thể giúp bạn gặp gỡ, cảm nhận tình yêu của Chúa. Bạn có thể học với Chúa Giêsu để phát hiện Tình Yêu của Cha, hình ảnh của Cha trong những vật, những người, những tình huống tầm thường nhất.

Ðôi mắt người nghèo có cái gì giống đôi mắt người yêu ở chỗ rất nhạy bén, rất tinh. Ðôi mắt người yêu rất tinh để nhận ra hình dáng, dấu vết của người yêu, và nhất là để nhận ra những nét đáng yêu của người yêu.

Bạn ạ, trong ơn gọi của bạn, bạn rất cần có đôi mắt người đang yêu đối với Thiên Chúa, đối với mọi người và mọi sự, yêu mọi người, mọi sự trong Chúa. Với đôi mắt người yêu, bạn sẽ nhận ra Chúa ở trong mọi người mọi sự, và nhận ra vẻ đáng yêu của mọi người mọi sự giống như Chúa nhìn, như vậy bạn mới có thể yêu Chúa trong tất cả và yêu tất cả trong Chúa, và yêu như Chúa yêu.

Nhiều thánh vịnh có thể giúp bạn tập nhìn đời bằng đôi mắt người yêu, như thánh vịnh 104 về những vẻ huy hoàng của vạn vật, và các thánh vịnh Job 38-39.

Tác giả Nguyễn Công Đoan, S.J.
......................................................................

Saturday, March 5, 2011

Toa thuốc rất hay cả về tinh thần lẫn thể xác

Toa thuốc rất hay cả về tinh thần lẫn thể xác

I. Sức khỏe:

Tổ chức Y Tế Thế Giới (WHO) định nghĩa:
“Sức khỏe là một tình trạng thoải mái hoàn toàn về thể chất và hoàn cảnh, chứ không phải là một tình trạng không có bệnh tật hay tàn tật”..

II. Bí quyết trường thọ:

1. Chấp nhận với những gì mình đang có
2. Thích nghi với hoàn cảnh của mình
3. Điều chỉnh để đạt được điều mong muốn.

III. Phòng ngừa bệnh tật:

1. Không vui quá hại tim
2. Không buồn quá hại phổi
3. Không tức quá hại gan
4. Không sợ quá hại thần kinh
5. Không suy nghĩ quá hại tỳ
6. Xua tan hoài niệm cay đắng bằng tha thứ và lãng quên
7. Với người cao tuổi tránh tranh luận hơn thua.

IV. Thức ăn & uống trong ngày:

Một củ hành: chống ung thư
Một quả cà chua: chống tăng huyết áp
Một lát gừng: chống viêm nhiễm
Một củ khoai tây: chống sơ vữa động mạch
Một trái chuối: làm phấn chấn thần kinh, bớt lo âu, chống táo bón, giảm được béo
Một quả trứng hay ít thịt nạc: chống suy dinh dưỡng
Uống 1 đến 2 lít nước mỗi ngày: giải độc cơ thể.

V. Triết lý của người Trung Hoa hiện đại:

1. Một Trung Tâm là sức khỏe
2. Hai Tí: Một tí thoải mái – Một tí nhiệt tình
3. Ba Quên: Quên tuổi tác – Quên bệnh tật – Quên hận thù
4. Bốn Có: Có nhà ở – Có bạn đời – Có bạn tri âm – Có lòng vị tha.
5. Năm Phải:
  • Phải vận động
  • Phải biết cười
  • Phải lịch sự hòa nhã
  • Phải biết nói chuyện và
  • Phải coi mình là người bình thường.

VI. Bảo Sinh Thái Ất Chân Nhân:

1. Ít nói năng để dưỡng Nội Khí
2. Kiêng sắc dục để dưỡng Tinh Khí
3. Bớt ăn hăng mạnh để dưỡng Huyết Khí
4. Đừng nhổ nước bọt để dưỡng Tạng Khí
5. Chớ giận hờn để dưỡng Can Khí
6. Chớ ăn quá độ để dưỡng Vị Khí
7. Ít lo lắng để dưỡng Tâm Khí
8. Tránh tà tâm để dưỡng Thần Khí.

VII. Hãy Dành Thì Giờ - Mẹ Thêrêsa Calcutta:

Hãy dành thì giờ để suy nghĩ Đó là nguồn sức mạnh.
Hãy dành thì giờ để cầu nguyện Đó là sức mạnh toàn năng.
Hãy dành thì giờ cất tiếng cười Đó là tiếng nhạc của tâm hồn.
Hãy dành thì giờ chơi đùa Đó là bí mật trẻ mãi không già.
Hãy dành thì giờ để yêu và được yêu Ưu tiên Thiên Chúa ban.
Hãy dành thì giờ để cho đi Một ngày quá ngắn để sống ích kỷ.
Hãy dành thì giờ đọc sách Đó là nguồn mạch minh triết.
Hãy dành thì giờ để thân thiện Đó là đường dẫn tới hạnh phúc.
Hãy dành thì giờ để làm việc Đó là giá của thành công.
Hãy dành thì giờ cho bác ái Đó là chìa khóa cửa thiên đàng.
(Theo Vietcatholic)
..........................................................................................

Sunday, February 27, 2011

Nghệ Thuật Sống

Friday, January 14, 2011

About Me

Một số thông tin về quản trị webblog này

☼ Tên đầy đủ: Jb Phan Đức Định
☼ Sinh nhật: 20/11
☼ Giới tính: Nam
☼ Nickname: Siloha
☼ Email: dinhsiloha@gmail.com
☼ Gia Đình: SJ (từ ngày 15/8/2002)
☼ Nơi ở hiện tại: Tokyo (từ ngày 22/9/2009)

Sở thích: Thích tìm tòi, học hỏi, nghe nhạc, chụp hình, ngắm cảnh thiên nhiên và chơi thể thao.

☼ Giới Thiệu Về Bản Thân: Sống là một hành trình tìm kiếm và gặp gỡ.

Facebook Twitter Delicious Favorites More

 
Lên đầu trang
Xuống cuối trang