I want to love you more!

Showing posts with label Church. Show all posts
Showing posts with label Church. Show all posts

Monday, April 23, 2012

Ai đã thành lập Giáo Hội Việt Nam?

Câu hỏi trong khuôn khổ lịch sử khách quan:
Ai đã thành lập Giáo Hội Việt Nam?

LTS Tập San Định Hướng : Nhật báo Công Giáo Pháp La Croix ngày 18/1/1996 tường trình về chuyến viếng thăm chính thức của phái đoàn hàng giáo phẩm Công Giáo Pháp đến Việt Nam. Phái đoàn do Tổng Giám Mục Joseph Duval, Chủ Tịch Hội Đồng Giám Mục Pháp hướng dẫn. Ký giả Frédéric Mounier viết rằng: “Cho đến ngày 28-1, các Giám Mục Pháp sẽ gặp các Giám Mục Việt Nam. Chuyến đi sẽ dẫn họ từ Hà Nội đến Huế. Dẫu có lời yêu cầu của họ, chính quyền không cho phép họ đi đến miền Nam. Đức Cha Duval nhấn mạnh đến “bổn phận” của Giáo Hội Pháp đối với Giáo Hội huynh đệ Việt Nam. “Giáo Hội này có gốc từ Pháp, nó đã được thành lập nhờ những nỗ lực của các nhà truyền giáo Pháp”. Như thế trong tinh thần của những người đã khai sáng nên Giáo Hội này, đây đúng là một cuộc hành hương”. Mười Linh Mục của Hội Thừa Sai Balê đã chết tử đạo tại đây, và đã được phong thánh...”.

Lối tường trình sự kiện và nội dung câu trích dẫn lời phát biểu (nhấn mạnh) của Giám Mục Joseph Duval đã dấy lên một câu hỏi cho Roland Jacques, một nhà nghiên cứu về lịch sử Giáo Hội Việt Nam: trên bình diện khách quan của lịch sử, có những vấn đề nào cần lưu ý về lời phát biểu này?. Tháng 2-96, Roland Jacques đã viết thư cho Đức Tổng Giám Mục Joseph Duval để trình bày về quan điểm của mình liên quan đến lời phát biểu đó.

Một bản văn tóm lược bức thư này đã được đăng trên nhật báo La Croix vào tháng 6-1997. Nguyên bản bức thư được Nguyễn-Đăng-Trúc, dịch ra Việt ngữ và đăng trên Tập San Định Hướng số 14 / Winter 1997 Pp 120-124- * Tập San Đinh Hướng, Trung Tâm Văn Hóa Nguyễn Trường Tộ

Giáo Hội Công Giáo Việt Nam có phải phát xuất từ Pháp không?

Ts Roland Jacques

Gs khoa trưởng Phân khoa Giáo Luật,

Đại hc Công Giáo St Paul, Ottawa , Canada

Thư gởi Đức Cha Joseph Duval,

Chủ Tịch Hội Đồng Các Giám Mục Pháp.

Kính Đức Cha,

Nhật báo Công Giáo La Croix ngày 18-1-1996 đã cho phổ biến một bài báo ký tên Frédéric Mounier với tựa đề: “Giáo Hội Pháp quay lại với Giáo Hội của Việt Nam ”. Cơ hội để có bài báo này, một bài báo vốn rất đáng lưu ý, là cuộc khởi hành của một phái đoàn Giám Mục Pháp đi Việt Nam . Ký giả trích dẫn trong ngoặc kép những lời phát biểu mà Đức Cha đã nói để giải thích lý do chuyến viếng thăm này: “Giáo Hội này có gốc từ Pháp, nó đã được thành lập nhờ những nỗ lực của các nhà truyền giáo Pháp”. Có lẽ người ta đã méo mó những lời nói của Đức Cha, nhưng dẫu sao một sự xác quyết như thế là một sự sai lầm lịch sử, và là một phương cách rất đáng tranh cãi để chuẩn bị khung cảnh (thuận lợi) cho cuộc gặp gỡ.

Ai đã thành lập nên Giáo Hội Việt Nam ?

Trả lời cho câu hỏi có tính cách lịch sử này, phải khẳng định (sans ambiguité) rằng các vị thành lập, kể từ năm 1615, là những giáo sĩ dòng Tên của tỉnh dòng Nhật Bản, tỉnh dòng có tính cách quốc tế trong việc tuyển chọn (nhân sự) và thuần túy Bồ Đào Nha trong các mối lệ thuộc về mặt pháp lý. Từ thế kỷ 16, các vị thừa sai Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha thuộc nhiều Hội dòng tu khác nhau đôi lúc đã cố thử mở đường rao giảng Phúc Âm, nhưng phải đợi đến phương pháp và sự kiên trì quyết tâm của các tu sĩ dòng tên để thấy được những hy vọng đó được cụ thể hóa. Khi những vị người Pháp đầu tiên – các tu sĩ Joseph Francis Tissanier và Pierre Jacques Albier – đi tàu biển đến xứ này vào năm 1658, thì có gần 70 vị truyền giáo gồm tám quốc tịch đã tiếp tục nhau đến trước, trong số đó có 35 vị người Bồ Đào Nha, 19 vị người Ý và 7 vị người Nhật. Vào chính thời gian này, theo những ước tính lạc quan nhất, thì số người Kitô hữu Việt Nam đã có trên 100.000 rải rác trong vài trăm cộng đoàn địa phương. Những người giáo dân được đào tạo kỹ lưỡng hướng dẫn họ; (những giáo dân này) có đủ khả năng để đương đầu với những hoàn cảnh khó khăn nhất; ngay từ các năm 1644 đến 1645, họ đã có những vị tử đạo của họ, đó là những vị tử đạo đầu tiên với một danh sách rất dài.

Thật sự có sự kiện là lịch sử được viết theo lối người Pháp cố nêu lên sự nghiệp to lớn này cho một mình cha Alexandre de Rhodes. Tuy nhiên cần thiết phải đặt lại con người truyền giáo nổi danh này trong khung cảnh thực (của lịch sử). Ngài sinh tại Avignon, lãnh địa của Giáo Hoàng, cha Rhodes cũng không phải người Pháp như trường hợp của thánh François de Sales, dẫu ngài thuộc nền văn hóa Pháp như vị kia. Ngài vào Hội Dòng Chúa Giêsu tại Roma, và chính lý lịch Roma này đã cho phép ngài được đi đến Đông Phương vào một thời kỳ mà người Pháp không có quyền. Khi cha Rhodes đến Việt Nam vào năm 1624, các nền tảng xây dựng Giáo Hội Kitô giáo đã được thành lập vững chắc tại vùng miền Trung; công trạng lớn lao của ngài là đã đưa cuộc truyền bá Phúc Âm đến miền Bắc xứ này; ở đây ngài chỉ lưu lại một thời gian duy nhất từ năm 1627 đến năm 1630 và đó là một thành quả lớn lao cho việc truyền giáo. Ngoài ra, tên tuổi ngài được gắn liền với các công trình ngữ học về tiếng Việt nhờ những tác phẩm ngài đã xuất bản tại Âu Châu vào năm 1651. Trong lãnh vực này cũng như trong công việc truyền giáo nói riêng, sự thành công của ngài lệ thuộc vào công trình của các vị tiên phong đi trước ngài. Đây là một công trình tập thể rõ rệt, không thể gán cho công lao một xứ nào riêng, dẫu người Bồ Đào Nha gián tiếp đã là những bậc thầy thi công, cũng như họ là những người thợ đông nhất.

Hội Dòng Truyền Giáo Ngoại Quốc Paris (MEP) và các vị tử đạo

Khởi từ năm 1664 (miền Trung Việt Nam) và 1666 (miền Bắc), Hội Dòng Truyền Giáo Ngoại Quốc Paris đã cống hiến một thế hệ thứ ba các người thợ Phúc Âm, và đặc biệt những vị Giám Mục đầu tiên mà Roma muốn ban cho Giáo Hội còn trẻ này. Tiếp đó, các Cha đường du Bac đã đóng một vai trò có tầm vóc quan trọng to lớn không thể chối cãi được trong Giáo Hội của Việt Nam. Nhưng không vào một thời kỳ nào bất kỳ, kể cả dưới thời thực dân Pháp trong các năm của thập niên 1860, các vị truyền giáo Pháp không phải đã là những vị truyền giáo duy nhất tại Việt Nam. Tác giả bài báo đã nhắc lại rất đúng rằng mười trong các vị truyền giáo Pháp đã bị giết chết vì đức tin trong thế kỷ 19; cách đây vài năm, họ được tôn vinh vào bậc thánh tử đạo cùng một lúc với 96 vị tử đạo tại Việt Nam. Nhưng khi nói đến các vị truyền giáo ngoại quốc chịu tử đạo, có lẽ đúng hơn đừng cho người ta hiểu rằng người Pháp là những vị tử đạo đầu tiên, và chỉ có người Pháp mà thôi. Trong nhóm các vị thánh đã được Giáo Hội tôn vinh, thực ra có 11 vị dòng Đaminh gốc Tây Ban Nha, mà những vị lâu đời nhất trong họ đã từng chịu án tử ngay từ năm 1745, nghĩa là 88 năm trước thánh François Isidore Galelin. Còn những vị tu sĩ Dòng Tên thuộc tỉnh dòng Nhật bản, họ lại đã đi trước tất cả các vị này, với hai vị tử đạo người Ý vào năm 1723, ba vị người Bồ Đào Nha và một vị người Đức vào năm 1737; sự việc Roma đã chưa chuẩn y sự tử đạo của hai nhóm này lệ thuộc vào những hoàn cảnh lịch sử, trong đó các nạn nhân này không can dự gì.

Những người Công Giáo Việt Nam và nước Pháp

Trong các lời nói của Đức Cha, không phải chỉ có sự sai lầm lịch sử là đáng tiếc. Thật vậy, hẳn nhiên là vô tình, nhưng Đức Cha đã mang lại một thế dựa cho một luận cứ từng gây nên nhiều tai hại cho người Công Giáo Việt Nam, và luận cứ đó từ mấy năm nay lại dấy lên lại một cách mạnh mẽ. Lời mỉa mai của dân chúng hoặc cả đến các giáo sư đại học tên tuổi đã từng kịch liệt chứng minh về sự thông đồng giữa Chủ Nghĩa Thực Dân Pháp và sự lan tràn của đạo Công Giáo vào Việt Nam. Nhiều đợt, người Công Giáo xứ này đã phải đương đầu với lời luận tội như là “đảng” của người ngoại quốc, đóng vai kẻ thù của xứ sở. Hôm nay cũng như hôm qua, ở Việt Nam và ở hải ngoại, nhiều người thuộc nhiều chủ trương ý hệ khác nhau dường như muốn thấy tôn giáo nhập cảng từ trong các gói hành lý của người Pháp (theo lối nói của họ) tan biến đi. Nếu ngày nay các mối liên hệ của Giáo Hội Việt Nam với các Giáo Hội anh em trên toàn thế giới còn gặp nhiều khó khăn, một phần lớn cũng do sự nghi ngờ luôn hiện hành này, do chính sự bất công lịch sử trong đó chúng ta, những người Pháp, không phải là bàn tay hoàn toàn sạch.

Vào lúc lên đường đến Việt Nam, Đức Cha thấy phải khẩn trương để nhắc lại cho Giáo Hội xứ này một nguồn gốc người Pháp nặng tính cách giả thiết này hay không? Làm như thế, các lời nói của Đức Cha dường như lại đặt Giáo Hội ấy trong một vị thế mãi lệ thuộc và mang nợ với Giáo Hội Pháp, hoặc nước Pháp nói gọn như thế; các lời ấy củng cố cho những lập trường của những người gièm pha Giáo Hội Việt Nam, và làm giảm uy thế những luận chứng của tất cả những ai đang nỗ lực thiết định lại chân lý lịch sử hầu trả lại danh dự cho Giáo Hội Việt Nam.

Kính thưa Đức Cha, không phải như thế, Giáo Hội Việt Nam không phải phát sinh do người Pháp. Giáo Hội đó là con của Giáo Hội hoàn vũ đúng theo mẫu mực điển hình của nó; trong thời còn non trẻ, Giáo Hội này đã hưởng được sự cung ứng của nhiều nền văn hóa và truyền thống dị biệt, cho phép nó dần hồi bước đến tuổi trưởng thành theo con đường đặc thù của mình. Ngày nay, khi phải đương đầu với nhiều vấn đề, Giáo Hội này ưu tiên phải (tự củng cố), xác định vị thế đặc thù của mình, tìm lại chỗ đứng trọn vẹn trong lòng của xã hội Việt Nam và trong nền văn hóa có từ ngàn năm của Việt Nam, với những giá trị mà Giáo Hội đó đang ôm sẵn và chúng cũng là những giá trị của Công Giáo tính phổ quát. Trong viễn tượng này, Giáo Hội Việt Nam không cần đến một quyền lực đỡ đầu, nó không chờ đợi để được “bú mớm” bởi bất cứ ai. Người Công Giáo Việt Nam chỉ cần tìm lại những mối liên hệ hiệp thông, chia sẻ và liên đới cụ thể hơn và thiết thực hơn với những người Kitô hữu anh em trên thế giới, như bao nhiêu người Công Giáo trong tất cả các xứ khác. Chúng ta hết lòng mong mỏi rằng cuộc viếng thăm của phái đoàn Giám Mục Pháp sẽ cống hiến điều đó.

*****

Thursday, January 27, 2011

Đọc Sứ điệp truyền thông xã hội lần thứ 45

http://luongtamconggiao.files.wordpress.com/2010/12/00benedict-xvi1.jpg
Chúng ta thừa biết rằng truyền thông xã hội ngày nay phát triển nhanh rộng đến không thể tưởng tượng được. Một máy computer, laptop hay một cái điện thoại cỏn con trên tay, bạn có thể lướt qua mọi ngỏ ngách của thế giới hiện nay. Chỉ cần một cái click chuột, một thế giới vừa ảo vừa thực hiện ra trước mắt trên màn hình. Quả thật, những chân trời mới đang mở ra với internet, với mobile phone và vân vân... Con người tha hồ thể hiện chính mình trên mạng internet với bao chiều kích khác nhau của cuộc sống. Internet đã đưa con người trên khắp sáu châu lục gần lại với nhau. Không ai có thể nói hết được chức năng phi thường và những ứng dụng kỳ diệu vừa hiện vừa ẩn của truyền thông xã hội nói chung và của mạng internet nói riêng.
Xét cho cùng, chân lý về Chúa Kitô là câu trả lời trọn vẹn và đích thực cho khát vọng của con người về tương quan, hiệp thông và ý nghĩa vốn thể hiện nơi sự tham gia đông đảo vào các mạng xã hội. Khi làm chứng cho những xác tín sâu xa nhất của mình, các tín hữu giúp rất nhiều cho thế giới mạng để không trở thành một công cụ phi nhân cách hóa con người, mưu toan thao túng cảm xúc con người hay cho phép kẻ mạnh nắm độc quyền các ý kiến của người khác. Trái lại, các tín hữu khuyến khích mọi người luôn lưu tâm đến những vấn đề muôn thuở của con người, vốn biểu lộ niềm khao khát siêu việt và mong muốn những hình thức sống đích thực, đáng sống. Chính niềm khao khát thiêng liêng nhân bản duy nhất này thúc đẩy chúng ta tìm kiếm chân lý và hiệp thông, truyền thông cách liêm chính và trung thực.
(Trích Sứ Điệp Truyền Thông Xã Hội lần thứ 45)

Thỉnh thoảng khi ngồi ngẫm nghĩ trong lúc lướt qua một vài website, tôi nhận thấy con người có một trí khôn quá nhiều sáng tạo. Đấng đã làm nên trí khôn đó thật tài tình khôn sánh. Điều tuyệt vời hơn nữa là Đấng Sáng Tạo ấy đã cho con người một tự do thực sự. Ngài muốn con người, con cái của Ngài, được gần lại với nhau, được hiểu nhau và được sống chân thật với nhau như một đại gia đình. Ngài để họ tự tìm ra phương thế phù hợp với trí khôn hiện có và với sự tự do đang sở hữu của họ. Đó là phương thế góp phần làm thỏa mãn niềm khao khát về ý nghĩa, sự thật và sự hiệp nhất vốn vẫn còn là khát vọng thâm sâu nhất của mỗi con người. Ngài muốn họ được hạnh phúc và ngày càng tiến xa hơn nữa trong việc sử dụng trí óc khôn ngoan của họ.

Truyền thông xã hội ngày nay, nếu nhìn theo hướng tích cực thì quả thật nó là phương tiện đưa nhân lại vượt qua mọi ranh giới để có thể hiệp nhất thành một gia đình chung. (Tương lai có lẽ sẽ có những phương tiện khác hữu hiệu hơn để giúp con người tiến tới điều mà Đấng Sáng Tạo mong muốn khi tạo dựng vũ trụ và con người, là được chia sẻ hạnh phúc duy nhất với Ngài.) Một mặt mạng lưới truyền thông xã hội hiện nay đã góp phần rất lớn trong việc phục vụ cho thiện ích toàn diện của cá nhân cũng như của cả nhân loại. Nói cách khác, nó là một trong những phương tiện hữu hiệu nhất để xây dựng nền văn minh tình thương và hiệp nhất. Dĩ nhiên, để xây dựng nền văn minh này, mạng lưới truyền thông chỉ là một cách thức thông tin, chia sẻ cảm tưởng hay gợi hứng thôi, bởi vì dù gì nó cũng chỉ là một thế giới ảo. Điều quan trọng chính là cuộc sống hiện thực với những tiếp xúc liên vị cụ thể và với những dấn thân đầy máu và nước mắt để xây dựng nền văn minh tình thương và hiệp nhất này.

Tuy nhiên, mặt trái của những phương tiện truyền thông hiện nay không thể không nói đến. Đó chính là điều mà Đức Thánh Cha cũng đã đề cập trong “Sứ điệp truyền thông xã hội lần thứ 45”. Cụ thể những giới hạn của mạng lưới truyền thông này là: tính một chiều của việc tương tác, khuynh hướng chỉ truyền thông một vài khía cạnh thế giới nội tâm của mình, nguy cơ của việc xây dựng một hình ảnh giả tạo của bản thân vốn có thể trở thành một hình thức phóng túng. Hơn nữa nó cũng có thể đưa đẩy một số người, nhất là giới trẻ đi vào con đường tội lỗi hoặc chỉ sống trong một thế giới hoàn toàn ảo tưởng.

Sứ điệp truyền thông xã hội lần thứ 45 nói về Sự thật, Việc Loan báo và Cuộc sống thực trong thời đại kỹ thuật số sẽ giúp chúng ta hiểu hơn về sự tương tác của mạng lưới truyền thông hiện nay đối với đời sống con người nói chung và ứng dụng của nó đối với việc rao giảng Tin Mừng Chúa Ki-tô nói riêng. Sau đây là một vài điểm quan trọng trong sứ điệp.
  • Trong thời đại kỹ thuật số cũng vậy, mỗi người đối mặt với nhu cầu sống thực và nhu cầu suy tư. Các công nghệ mới cho phép người ta gặp nhau vượt qua giới hạn không gian và nền văn hóa của riêng mình, tạo ra một thế giới tình bạn tiềm tàng hoàn toàn mới mẻ.
  • Việc làm chứng cho Tin Mừng trong thời đại kỹ thuật số đòi hỏi mọi người phải đặc biệt lưu tâm đến những khía cạnh của sứ điệp này vốn có thể là thách đố cho một số người về những lối suy nghĩ tiêu biểu của mạng lưới internet.
  • Ngay cả khi được loan báo trong không gian ảo của mạng lưới internet, Tin Mừng cũng đòi hỏi nhập thể vào thế giới thực và nối kết với những khuôn mặt thực của anh chị em chúng ta – những người mà chúng ta chia sẻ cuộc sống hằng ngày.
  • Tôi muốn mời gọi các kitô hữu hãy tự tin cùng với tinh thần sáng tạo có ý thức và trách nhiệm tham gia vào mạng lưới các tương quan mà thời đại kỹ thuật số đã đem lại. Đặc biệt tôi mời gọi các người trẻ sử dụng đúng đắn sự hiện diện của mình trong thế giới kỹ thuật số.
  • Xét cho cùng, chân lý về Chúa Kitô là câu trả lời trọn vẹn và đích thực cho khát vọng của con người về tương quan, hiệp thông và ý nghĩa vốn thể hiện nơi sự tham gia đông đảo vào các mạng xã hội.
Đọc Toàn bản văn sứ điệp Truyền Thông xã hội lần thứ 45 của Đức Thánh Cha Bê-nê-đic-tô XVI.

Xem Toàn bản văn của sứ điệp bằng English: MESSAGE OF HIS HOLINESS POPE BENEDICT XVI FOR THE 45th WORLD COMMUNICATIONS DAY

Ngoài ra còn có thể đọc thêm bài “Đức Thánh cha thúc giục Kitô hữu tham gia các mạng xã hội” đăng trên trang web http://www.ucanews.com


ros gelakguling surprised gelakguling ros

Tuesday, January 25, 2011

VERBUM DOMINI - Pope BENEDICT XVI

Ngày 11 tháng 11 năm 2010, Tòa thánh đã công bố Tông huấn Verbum Domini [Lời Chúa] của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI. Tông huấn này đã được Ngài ký ngày 30 tháng 9 năm 2010, nhân lễ kính Thánh Giêrônimô, linh mục, vị Thánh bổn mạng của những người yêu mến, học hỏi, loan truyền và giảng dạy Kinh Thánh trong Hội Thánh. Đây là Tông huấn Hậu Thượng Hội đồng Giám mục (lần thứ XII). Thượng Hội đồng này diễn ra vào tháng 10/2008 với chủ đề "Lời Chúa trong đời sống và sứ vụ của Hội thánh". Để đọc Giới thiệu Tông huấn Verbum Domini (Lời Chúa) của Đức Cha Giu-su Võ Đức Minh, xin mời click here.

Vào ngày 23 tháng 1 năm 2011, Ủy ban Kinh Thánh - Hội đồng Giám mục Việt Nam Giới thiệu Bản dịch Tông huấn LỜI CHÚA (Verbum Domini). Click here để đọc bài giới thiệu.

Sau đây là Verbum Domini, bản tiếng Anh. (Click vào các mục chính để đọc)

POST-SYNODAL
APOSTOLIC EXHORTATION
VERBUM DOMINI
OF THE HOLY FATHER
BENEDICT XVI
TO THE BISHOPS, CLERGY,
CONSECRATED PERSONS
AND THE LAY FAITHFUL
ON THE WORD OF GOD
IN THE LIFE AND MISSION
OF THE CHURCH

Introduction [1]

That our joy may be complete [2]
From “Dei Verbum” to the Synod on the Word of God [3]
The Synod of Bishops on the Word of God [4]
The Prologue of John’s Gospel as a guide [5]

PART ONE
VERBUM DEI


The God Who Speaks

God in dialogue [6]
The analogy of the word of God [7]
The cosmic dimension of the word [8]
The creation of man [9]
The realism of the word [10]
Christology of the word [11-13]
The eschatological dimension of the word of God [14]
The word of God and the Holy Spirit [15-16]
Tradition and Scripture [17-18]
Sacred Scripture, inspiration and truth [19]
God the Father, source and origin of the word [20-21]

Our Response To The God Who Speaks

Called to the covenant with God [22]
God hears us and responds to our questions [23]
In dialogue with God through his words [24]
The word of God and faith [25]
Sin as a refusal to hear the word of God [26]
Mary, “Mother of God’s Word” and “Mother of Faith” [27-28]

The Interpretation Of Sacred Scripture In The Church

The Church as the primary setting for biblical hermeneutics [29-30]
“The soul of sacred theology” [31]
The development of biblical studies and the Church’s magisterium [32-33]
The Council’s biblical hermeneutic: a directive to be appropriated [34]
The danger of dualism and a secularized hermeneutic [35]
Faith and reason in the approach to Scripture [36]
Literal sense and spiritual sense [37]
The need to transcend the “letter” [38]
The Bible’s intrinsic unity [39]
The relationship between the Old and the New Testaments [40-41]
The “dark” passages of the Bible [42]
Christians, Jews and the sacred Scriptures [43]
The fundamentalist interpretation of sacred Scripture [44]
Dialogue between pastors, theologians and exegetes [45]
The Bible and ecumenism [46]
Consequences for the study of theology [47]
The saints and the interpretation of Scripture [48-49]

PART TWO
VERBUM IN ECCLESIA


The Word Of God And The Church

The Church receives the word [50]
Christ’s constant presence in the life of the Church [51]

The Liturgy, Privileged Setting For The Word Of God

The word of God in the sacred liturgy [52]
Sacred Scripture and the sacraments [53]
The word of God and the Eucharist [54-55]
The sacramentality of the word [56]
Sacred Scripture and the Lectionary [57]
Proclamation of the word and the ministry of Reader [58]
The importance of the homily [59]
The fittingness of a Directory on Homiletics [60]
The word of God, Reconciliation and the Anointing of the Sick [61]
The word of God and the Liturgy of the Hours [62]
The word of God and the Book of Blessings [63]
Suggestions and practical proposals for promoting fuller participation in the liturgy [64]

a) Celebrations of the word of God [65]
b) The word and silence [66]
c) The solemn proclamation of the word of God [67]
d) The word of God in Christian Churches [68]
e) The exclusive use of biblical texts in the liturgy [69]
f) Biblically-inspired liturgical song [70]
g) Particular concern for the visually and hearing impaired [71]

The Word Of God In The Life Of The Church

Encountering the word of God in sacred Scripture [72]
Letting the Bible inspire pastoral activity [73]
The biblical dimension of catechesis [74]
The biblical formation of Christians [75]
Sacred Scripture in large ecclesial gatherings [76]
The word of God and vocations [77]

a) Ordained ministers and the word of God [78-81]
b) The word of God and candidates for Holy Orders [82]
c) The word of God and the consecrated life [83]
d) The word of God and the lay faithful [84]
e) The word of God, marriage and the family [85]

The prayerful reading of sacred Scripture and “lectio divina” [86-87]
The word of God and Marian prayer [88]
The word of God and the Holy Land [89]

PART THREE
VERBUM MUNDO


The Church’s Mission: To Proclaim The Word Of God To The World

The Word from the Father and to the Father [90]
Proclaiming to the world the “Logos” of hope [91]
The word of God is the source of the Church’s mission [92]
The word and the Kingdom of God [93]
All the baptized are responsible for this proclamation [94]
The necessity of the “missio ad gentes” [95]
Proclamation and the new evangelization [96]
The word of God and Christian witness [97-98]

The Word Of God And Commitment In The World

Serving Jesus in “the least of his brethren” (Mt 25:40) [99]
The word of God and commitment to justice in society [100-101]
The proclamation of God’s word, reconciliation and peace between peoples [102]
The word of God and practical charity [103]
The proclamation of the word of God and young people [104]
The proclamation of the word of God and migrants [105]
The proclamation of the word of God and the suffering [106]
The proclamation of the word of God and the poor [107]
The proclamation of the word of God and the protection of creation [108]

The Word Of God And Culture

The value of culture for the life of humanity [109]
The Bible, a great code for cultures [110]
Knowledge of the Bible in schools and universities [111]
Sacred Scripture in the variety of artistic expressions [112]
The word of God and the means of social communication [113]
The Bible and inculturation [114]
Translating the Bible and making it more widely available [115]
God’s word transcends cultural limits [116]

The Word Of God And Interreligious Dialogue

The value of interreligious dialogue [117]
Dialogue between Christians and Muslims [118]
Dialogue with other religions [119]
Dialogue and religious freedom [120]

Conclusion

God’s definitive word [121]
New evangelization and a new hearing [122]
The word and joy [123]
“Mater Verbi et Mater laetitiae” [124]

star angel star ros angel ros star angel star

Monday, January 24, 2011

Lần đầu tiên Đức Thánh Cha tiếp kiến 1200 cảnh sát Roma

Nhân đọc bài dưới đây, xin cầu nguyện cho các anh chị em an ninh trong ngành cảnh sát ở Việt Nam có được "sự phối hợp giữa khả năng nghề nghiệp chuyên môn và đức tính nhân bản, giữa sự canh tân các phương pháp và hệ thống an ninh với các đức tính nhân bản như kiên nhẫn, kiên trì trong điều thiện, hy vọng và sẵn sàng lắng nghe" như lời Đức Thánh Cha nhắn nhủ cảnh sát Roma.

Lần đầu tiên Đức Thánh Cha tiếp kiến 1200 cảnh sát Roma


Nguồn: http://www.radiovaticana.org/vie/Articolo.asp?c=456202 VATICAN.

ĐTC Biển Đức 16 tái tố giác xu hướng gạt bỏ tôn giáo ra ngoài lề xã hội và đóng khung tôn giáo trong lãnh vực riêng tư.
hiệu năng công việc của anh chị em là kết quả của sự phối hợp giữa khả năng nghề nghiệp chuyên môn và đức tính nhân bản, giữa sự canh tân các phương pháp và hệ thống an ninh với các đức tính nhân bản như kiên nhẫn, kiên trì trong điều thiện, hy vọng và sẵn sàng lắng nghe


Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong buổi tiếp kiến sáng ngày 21-1-2011, dành cho 1.200 người gồm các vị chỉ huy và nhân viên cảnh sát cùng với thân nhân của họ ở Roma. Họ đại diện cho 7.500 nhân viên cảnh sát các cấp phục vụ tại thủ đô Italia.

Trong tư cách là GM Roma, ĐTC cám ơn họ vì “những gì đã và đang thực hiện để cuộc sống tại thành phố này diễn ra trong trật tự và an ninh. Ngài cũng nhắc đến một hiện tượng ngày nay người ta dành tầm quan trọng đặc biệt cho chiều kích chủ quan trong cuộc sống. Hiện tượng này là tích cực khi nó đặt con người ở vị trí trung tâm và đề cao giá trị của lương tâm con người, nhưng nó cũng có một nguy cơ lớn, khi người ta quan niệm lương tâm một cách hẹp hòi, theo đó không có những điểm tham chiếu khách quan để xác định đâu là điều giá trị và đâu là điều thật, trái lại mỗi cá nhân là mẫu mực riêng cho mình.”

ĐTC nhận xét rằng “hậu quả của hiện tượng trên đây là tôn giáo và luân lý có xu hướng bị đóng khung trong lãnh vực chủ quan, riêng tư. Đức tin và các giá trị của đức tin, những cư xử theo đức tin không được quyền có chỗ đứng trong đời sống công cộng và dân sự. Tôn giáo dần dần bị gạt ra ngoài lề và bị coi là không quan trọng, xa lạ đối với thế giới văn minh, như thể người ta phải giới hạn ảnh hưởng của tôn giáo trên đời sống con người”.

Đứng trước tình trạng trên đây, ĐTC nói: “Những thách đố mới xuất hiện nơi chân trời đòi hỏi sự tái gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người, chúng đòi xã hội và các tổ chức công cộng tìm lại “cái hồn” của mình, những căn cội tinh thần và luân lý của mình, để mang lại những sức mạnh mới cho các giá trị luân lý và pháp lý làm điểm tham chiếu và cho hoạt động thực hành. Đức tin Kitô và Giáo Hội không bao giờ ngưng đóng góp cho việc thăng tiến công ích và sự tiến bộ đích thực của con người”.

Sau cùng, ĐTC nhắn nhủ các viên chức cảnh sát rằng: “Ơn gọi đặc biệt của thành Roma ngày nay đòi anh chị em là những nhân viên công quyền nêu gương về ảnh hưởng tích cực và phúc lợi giữa đặc tính đời lành mạnh và đức tin Kitô. Thực vậy, hiệu năng công việc của anh chị em là kết quả của sự phối hợp giữa khả năng nghề nghiệp chuyên môn và đức tính nhân bản, giữa sự canh tân các phương pháp và hệ thống an ninh với các đức tính nhân bản như kiên nhẫn, kiên trì trong điều thiện, hy vọng và sẵn sàng lắng nghe” (SD 21-1-2011)
G. Trần Đức Anh OP

celebrate minum celebrate

Saturday, January 22, 2011

Week of Prayer for Christian Unity


BENEDICT XVI
GENERAL AUDIENCE
Paul VI Audience Hall
Wednesday, 19 January 2011
Week of Prayer for Christian Unity

Dear Brothers and Sisters,

During this Week of Prayer for Christian Unity, all the Lord’s followers are asked to implore the gift of full communion. This year’s theme – “They devoted themselves to the Apostles’ teaching and fellowship, to the breaking of bread and the prayers” (Acts 2:42) – invites us to reflect on four pillars of unity found in the life of the early Church.

The first is fidelity to the Gospel of Jesus Christ proclaimed by the Apostles.

The second is fraternal communion, a contemporary expression of which is seen in the growing ecumenical friendship among Christians.

The third is the breaking of the bread; although the inability of separated Christians to share the same Eucharistic table is a reminder that we are still far from the unity which Christ wills for his disciples, it is also an incentive to greater efforts to remove every obstacle to that unity.

Finally, prayer itself helps us realize that we are children of the one heavenly Father, called to forgiveness and reconciliation. During this Week, let us pray that all Christians will grow in fidelity to the Gospel, in fraternal unity and in missionary zeal, in order to draw all men and women into the saving unity of Christ’s Church.

* * *

I offer a warm welcome to the students and staff of the Bossey Graduate School of Ecumenical Studies. I thank the choir from Finland for their praise of God in song. To all the English-speaking pilgrims present at today’s Audience, including those from Australia, Canada and the United States, I invoke an abundance of joy and peace in the Lord.

Source: http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/audiences/2011/documents/hf_ben-xvi_aud_20110119_en.html

starstarstar

Sau đây là bản tiếng Việt chi tiết hơn, được phỏng dịch từ nguyên bản tiếng Ý của Nguyễn Học Tập.

TUẦN LỄ CẦU NGUYỆN CHO SỰ HIỆP NHẤT CÁC TÍN HỮU CHÚA KITÔ:
Ở ĐÂU CÓ HAI HAY BA NGƯỜI HỢP NHAU NHÂN DANH THẦY,
THÌ CÓ THẦY Ở ĐÓ, GIỮA HỌ.

BÀI GIÁO LÝ NGÀY THỨ TƯ
Thính phòng Phaolồ VI,
buổi yết kiến ngày thứ tư, 19.01.2011.
ĐỨC THÁNH CHA BENEDICTUS XVI:

Anh Chị Em thân mến, Chúng ta đang cử hành Tuần Lễ Cầu Nguyện Cho Sự Hiệp Nhất Các Tín Hữu Chúa Ki Tô, trong đó tất cả các tín hữu Chúa Ki Tô đều được mời gọi hiệp nhất với nhau trong lời cầu nguyện, để nhân chứng cho thế giới mối liên hệ sâu đậm giữa họ và để cầu xin ơn được thông hiệp hoàn hảo.
Trong đoạn được trích dẫn của Sách Tông Đồ Công Vụ, có bốn đặc tính diễn tả lên cộng đồng Ki Tô giáo tiên khởi ở Giêrusalem, như là nơi chốn của sự hiệp nhất và tình thương, mà chính Thánh Luca cũng không chỉ muốn kể lại như là những gì thuộc về quá khứ. Đặc tính thứ nhất là, trong mối hiệp nhất và kiên trì lắng nghe lời giảng dạy của các Tông Đồ, kế đến là hiệp nhất huynh đệ với nhau, trong việc bẻ bánh và trong các lời kinh nguyện.

Đây là một điều Chúa Quan Phòng bởi lý do là, trên con đường kiến tạo sự hiệp nhất, cầu nguyện được đặt vào trung tâm điểm. Điều đó nhắc cho chúng ta một lần nữa rằng sự hiệp nhất không thể được kiến tạo nên đơn thuần do động tác của con người. Sự hiệp nhất trước tiên là một ơn của Chúa, gồm ở việc lớn lên trong mối thông hiệp với Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.

Công Đồng Vatican II nói:
- " Những lời chung nhau cầu nguyện nầy chắc chắn là một phương thế rất hữu hiệu để xin được ơn hiệp nhất và tạo nên một sự phát triển chính đáng các mối tương quan, mà nhờ đó các người công giáo vẫn còn hiệp nhất với các anh em ly khai. " Bởi vì ở đâu có hai hay ba người hợp lại vì danh Thầy, thì có Thầy ở đó, giữa họ " ( Mt 18, 20) ( Nghị Định Unitatis Redintegratio, 8).

Con đường hướng đến sự hiệp nhất có thể thấy được giữa các tín hữu Chúa Ki Tô "abita " (cư ngụ) chính ở trong lời cầu nguyện, bởi vì nền tảng chính yếu của sự hiệp nhất không phải do chúng ta kiến tạo ra, mà do Thiên Chúa " thiết lập ", đến từ Thiên Chúa, từ Mầu Nhiệm Chúa Ba Ngôi, từ sự hiệp nhất của Chúa Cha với Chúa Con trong đối thoại yêu thương là Chúa Thánh Thần.
Và như vậy, sự chuyên cần hiệp nhất của chúng ta phải là mối chuyên lo mở rộng con người chúng ta ra cho động tác của Thiên Chúa, phải làm cho mình trở thành lời nguyện xin hằng ngày, xin Chúa giúp đỡ. Giáo Hội là của Chúa, chớ không phải của chúng ta.

1 - Chủ đề được chọn năm nay cho Tuần Lễ Cầu Nguyện cho Sự Hiệp Nhất được đặt liên hệ với kinh nghiệm của cộng đồng Ki Tô hữu tiên khởi ở Giêrusalem, như những gì được diễn tả lại trong Sách Tông Đồ Công Vụ, mà bản văn chúng ta đã được nghe:
- " Thời đó họ rất bền chí trong việc lắng nghe lời giảng dạy của các Tông Đồ và trong tình hiệp nhứt huynh đệ, trong việc bẻ bánh và trong các lời kinh nguyện " ( Act 2, 42).

Chúng ta phải nhận thức rằng ngay từ Lễ Hiện Xuống, Chúa Thánh Thần đã xuống trên những người có ngôn ngữ và văn hoá khác nhau. Điều đó có nghĩa là ngay từ lúc đầu, Giáo Hội đã gồm dân chúng từ nhiều xuất xứ khác nhau, và chính vì khởi đầu từ những khác biệt đó, Chúa Thánh Thần đã tác tạo thành một thân thể duy nhất.
Lễ Hiện Xuống như là khởi thủy của Giáo Hội, đánh dấu việc lan rộng Giao Ước của Chúa đối với tất cả các tạo vật, đối với tất cả mọi dân tôc và mọi thời đại, để cho cả công trình sáng tạo đều cùng nhằm về mục đích đích thực của mình: đó là trở thành môi trường hiệp nhất và tình thương.
Trong đoạn được trích dẫn của Sách Tông Đồ Công Vụ, có bốn đặc tính diễn tả lên cộng đồng Ki Tô giáo tiên khởi ở Giêrusalem, như là nơi chốn của sự hiệp nhất và tình thương, mà chính Thánh Luca cũng không chỉ muốn kể lại như là những gì thuộc về quá khứ.
Ngài muốn hiến tặng cho chúng ta như là mẫu gương, như là định chuẩn của Giáo Hội hiện tại, bởi vì bốn đặc tính đó phải là những gì luôn luôn kiến tạo nên đời sống của Giáo Hội.
Đặc tính thứ nhất là, trong mối hiệp nhất và kiên trì lắng nghe lời giảng dạy của các Tông Đồ, kế đến là hiệp nhất huynh đệ với nhau, trong việc bẻ bánh và trong các lời kinh nguyện.
Như tôi đã nói, các đặc tính đó vẫn còn là những cột trụ cho đời sống hiện nay của mỗi cộng đồng Ki Tô giáo và cũng thiết định thành nền tảng vững chắc, trên đó sự tiến triển trong việc hiệp nhất của Giáo Hội có thể thấy được.

a) Trước tiên chúng ta có yếu tố lắng nghe lời giảng dạy của các Tông Đồ, hay lắng nghe chứng nhân những gì các vị đã thực hiện cho sứ mạng, cho đời sống, cuộc tử nạn và biến cố phục sinh của Chúa.
Tất cả những điều đó, Thánh Phaolồ gọi một cách đơn sơ, đó là " Phúc Âm ".
Các người tín hữu Chúa Ki Tô tiên khởi nhận được Phúc Âm từ mệng các Tông Đồ, họ hiệp nhất với nhau nhờ lắng nghe và nhờ lời rao giảng Phúc Âm, bởi vì Phúc Âm, như Thánh Phaolồ xác nhận,
- " là quyền năng của Chúa để cứu rổi bất cứ những ai tin " ( Rom 1, 16).
Ngay cà ngày hôm nay, cộng đồng các tín hữu nhận biết đối với lời giảng dạy của các Tông Đồ là lề luật của đức tin mình .
Bởi đó, mọi cố gắng để kiến tạo nên sự hiệp nhất giữa các tín hữu Chúa Ki Tô trước tiên phải trải qua việc tìm hiểu sâu dậm lòng trung thành với " depositum fidei " ( kho tàng tồn trử của đức tin ), đã được các Tông Đồ truyền lại cho.
Vững chắc trong đức tin là nền tảng sự thông hiệp của chúng ta, là nền tảng của sự hiệp nhứt Ki Tô giáo.

b) Yếu tố thứ hai là sự thông hiệp huynh đệ.
Thời cộng đồng Ki Tô hữu tiên khởi, cũng như ngay cả trong thời đại chúng ta, đây là biểu hiệu ai cũng thấy được, nhất là đối với thế giới bên ngoài. Biểu tượng nói lên sự hiệp nhất giữa các môn đệ của Chúa.
Chúng ta đọc được trong Sách Tông Đồ Công Vụ rằng các Ki Tô hữu tiên khởi đặt mọi của cải chung với nhau và ai có tài sản và của cải đều đem bán đi để góp phần gíúp cho những ai túng thiếu ( cfr Act 2, 44-45).
Phương thức chia sẻ cho nhau của cải riêng tư của mình, trong lịch sử Giáo Hội, luôn luôn có được những phương thức mới để thực hiện. Một trong những phương thức cá biệt, đó là mối tương giao huynh đệ và thân hữu được thiết lập giữa các người tín hữu Chúa Ki Tô thuộc các "confessioni " (giáo phái) khác nhau.
Lịch sử của các phong trào hiệp nhất được ghi nhận bằng các khó khăn và những điều không chắc chắn, nhưng cũng là lịch sử của tình huynh đệ, hợp tác và chia sẻ nhân loại và thiêng liêng với nhau, đã làm biến đổi môt cách đáng kể các mối tương quan giữa những người tín hữu Chúa Ki Tô: tất cả đều chuyên cần tiếp tục dấn thân trên con đường nầy.
Như vậy, yếu tố thứ hai là sự thông hiệp, trước tiên là thông hiệp với Chúa nhờ đức tin, nhưng thông hiệp với Chúa cũng tạo ra sự thông hiệp giữa chúng ta và được diễn tả ra bằng thông hiệp thực hữu, mà Sách Tông Đồ Công Vụ đã đề cập đến, tức là chia sẻ cho nhau. Không ai trong cộng đồng Ki Tô giáo phải chịu đói khát, nghèo khổ, đây là điều bó buộc nền tảng. Thông hiệp với Chúa, được thể hiện như là sự thông hiệp huynh đệ, trên thực tế, được thể hiện trong dấn thân xã hội, trong bác ái Ki Tô giáo, trong công lý.

c) Yếu tố thứ ba căn bản trong đời sống cộng đồng Ki Tô hữu tiên khởi ở Giêrusalem là trong giây phút bẻ bánh, trong đó chính Chúa làm cho minh hiện diện với cuộc hy sinh duy nhất của Thánh Giá, trong việc hiến tặng hoàn toàn chính mình cho sự sống các bạn hữu Người:
" Đây là mình Thầy hiến dâng cho anh em... Đây là chén máu Thầy...đổ ra cho anh em ".

- " Giáo Hội sống bằng Phép Thánh Thể. Chân lý nầy không những nói lên kinh nghiệm hằng ngày của đức tin, mà còn gồm tóm trong đó nhân cội mầu nhiệm của Giáo Hội " ( ĐTC Gioan Phaolô II, Enc. Ecclesia de Eucharisia, 1).

Sự hiệp thông với sự hiến tế của Chúa Ki Tô là thượng đỉnh của việc chúng ta thông hiệp với Thiên Chúa và cũng nói lên mối hiệp nhất hoàn hảo của các tín hữu Chúa Ki Tô, sự thông hiệp trọn hảo.
Trong tuần lễ cầu nguyện cho sự hiệp nhất , thật đáng tiếc cảm nhận tận đáy lòng việc chúng ta chưa thể cùng nhau chia sẻ với nhau cùng một bàn tiệc Thánh Thể, dấu chỉ chúng ta còn khoản cách xa để đạt được sự hiệp nhất, mà Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho.
Kinh nghiệm đau buồn đó, cũng hàm chứa một chiều hướng đền tội cho việc cầu nguyện của chúng ta, kinh nghiệm đó cần phải trở nên một lý do cho việc tất cả chúng ta chuyên cần dấn thân quảng đại hơn nữa, để cho, sau khi những trở ngại cho việc thông hiệp trọn vẹn được cất bỏ đi, sẽ đến ngày trong đó tất cả chúng ta đều có thể hợp tập nhau quanh bàn tiệc của Chúa, cùng nhau bẻ Bánh Thánh Thể và cùng uống chung nhau một chén.

d) Sau cùng là lời cầu nguyện - hay nói như Thánh Luca là các buổi cầu nguyện - đó là đặc tính thứ tư của cộng đồng Ki Tô hữu tiên khởi ở Giêrusalem, được viết ra trong Sách Tông Đồ Công Vụ.
Cầu nguyện là thái độ liên lỉ bền chí của các môn đệ Chúa Ki Tô, điều luôn luôn đi sát cánh với đời sống thường nhật của họ vâng theo ý muốn của Chúa, như những gì đã chứng nhận các lời Thánh Phaolồ, khi ngài viết cho các tín hữu Thessalonica, trong Thư I của ngài:
- " Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh. Anh em hãy làm như vậy, đó là điều Thiên Chúa muốn trong Chúa Ki Tô Giêsu đối với anh em " ( I Ts 5, 16-18; cfr. Eph 6, 18).

Cầu nguyện của người tín hữu Chúa Ki Tô là dư phần vào lời cầu nguyện của Chúa Giêsu, là kinh nghiệm tuyệt đỉnh tình con cái, như những gì chứng nhận cho chúng ta các lời Kinh Lạy Cha, đó là lời cầu nguyện gia đình - đại danh từ "chúng con", con cái của Chúa , anh em chị em với nhau, đang thưa chuyện với vị Cha chung.
Như vậy đặt mình vào động tác cầu nguyện, trước tiên có nghĩa là rộng mở mình ra trong tình anh em. Chỉ có trong " chúng con ", chúng ta mới có thể nói " Lạy Cha Chúng Con".
Như vậy, chúng ta hãy mở rộng mình ra cho tình huynh đệ, phát xuất từ những đứa con của một Cha duy nhất trên trời và cũng từ đó sẵn sàng tha thứ và hoà giải lại với anh em.

2 - Anh Chị Em thân mến, là môn đệ của Chúa, chúng ta có trách nhiệm chung đối với thế giới, chúng ta phải phục vụ cho tất cả mọi người: như cộng đồng Ki Tô hữu tiên khởi ở Giêrusalem.

Khởi điểm từ những gì chúng ta đã đồng thuận với nhau, chúng ta phải có được một chứng nhân mạnh mẽ, đặt trên nền tảng thiêng liêng và đưọc nâng đỡ bởi lý trí, bởi một Thiên Chúa duy nhất đã mạc khải chính Người và nói với chúng ta trong Chúa Ki Tô.
Chung ta hảy trở thành những người mang sứ điệp định hướng và soi sáng các bước đường của con người thời đại chúng ta, thường mất đi những định điểm rõ rệt và vững chắc để định chuẩn.

Như vậy, điều quan trọng là mỗi ngày chúng ta phải trưởng thành lên trong tình yêu thương lẫn nhau, chuyên cần dấn thân để vượt thắng những rào cản ngăn chận còn hiện hữu giữa các tín hữu Chúa Ki Tô, hãy cảm nhận được sự hiệp nhất nội tâm giữa những kẻ đang đi theo Chúa, cộng tác với nhau hết sức có thể bằng cách chung nhau làm việc trên những vấn đề còn đang bỏ dở.
Và nhất là hãy xác tín rằng trên bước đường đang đi đó, phải có Chúa hỗtrợ chúng ta, Người còn phải gíúp chúng ta nhiều, bởi vì không có Người, đơn độc tự mình, không " ở lại trong Người " chúng ta không thể làm được gì ( cfr Jn 15, 5).

Các bạn thân mến, một lần nữa chính trong cầu nguyện mà chúng ta gặp được nhau hiệp nhất - nhất là trong tuần nầy - hiệp nhất với tất cả những ai tuyên xưng đức tin mình vào Chúa Ki Tô, Con Thiên Chúa. Chúng ta hãy kiên trì cầu nguyện, chúng ta hãy là những người cầu nguyện, cầu xin Chúa ban cho ơn hiệp nhất, để cho đồ án cứu rổi và hoà giải của Người được thực hiện trên cả thế giới.

Cám ơn Anh Chị Em.
Phỏng dịch từ nguyên bản Ý Ngữ : Nguyễn Học Tập.


peluk love peluk

Facebook Twitter Delicious Favorites More

 
Lên đầu trang
Xuống cuối trang