I want to love you more!

Thursday, April 6, 2017

St. John Baptist de la Salle

John Baptist de la Salle was born in Rheims, France, on April 30, 1651. His parents were from the nobility. John was used to elegant living. But he was a prayerful boy, too. He loved Jesus and his Church. In fact, he was studying to become a priest when both his parents died.

John had to leave the seminary and go home to take care of his brothers. But while he was teaching and training them, John kept on studying too. His brothers turned out to be fine young men. When their studies were completed, John Baptist was ordained a priest.

At that time, the nobles, like Father John Baptist's family, had the chance to be well educated. But the common people remained poor and ignorant. They had no opportunity to go to school. Father John Baptist felt very sorry for the children of the poor. He decided to do something about their situation. He began to open schools for them. To provide teachers, he started a new order, the Brothers of the Christian Schools. Although Father John Baptist also taught the children himself, he spent most of his time training the teaching brothers. For them he wrote a rule of life and a book explaining the best way to teach. Father John Baptist was one of the best educators of all time. He believed in teaching in the language of the people, not in Latin, as others did. He grouped the students into classes. He stressed the importance of silence while the lesson was being taught.

After a while, the brothers opened more schools. They taught the sons of the working people and nobles, too. Many difficulties faced the new order. But Father John Baptist's constant prayer and sacrifices blessed the work. It continued to grow and spread. Father John Baptist's health was never good. His asthma and arthritis caused him constant pain. In spite of this, he would never allow himself to take on an easier lifestyle. He died on Good Friday, April 7, 1719, at the age of sixty-eight. He was proclaimed a saint by Pope Leo XIII in 1900. Pope Pius XII declared him the patron of teachers in 1950.

St. John Baptist de la Salle and his religious congregation teach us how important our education is. Do we really try to learn from all the wonderful things we're taught in school? Do we pay attention in class and do our homework? When we begin studying, we can pray to St. John Baptist to help us.

Sent via iMissal

http://www.imissal.com


🎼🎸🎶🎵🎋
Jb Phan Duc Dinh
〒165-0033
Scholasticate of the Society of Jesus
Wakamiya 2-60-21
Nakano-ku, Tokyo, Japan
Tel: (+81) 03-5356-9813

Friday, May 18, 2012

Cầu Nguyện Với Lòng Biết Ơn

Cầu Nguyện Với Lòng Biết Ơn[1]

Người có tâm hồn biết ơn luôn cảm tạ về mọi điều trong cuộc sống. Chẳng có gì đến với tôi là tình cờ. Chính sự hiện hữu của bản thân đã là một món quà, bởi tôi không thể sinh ra chính mình. Mọi thứ tôi có đều là ân huệ. Mọi cuộc gặp gỡ giữa tôi và người khác đều mang đến cho tôi những sự chúc lành nào đó, ngay cả khi họ chẳng đem lại cho tôi sự may lành nào. Cho nên chúng ta vẫn thường hay nói 'trong cái rủi cũng có cái may' đấy.

Lòng biết ơn là một thái độ không thể thiếu trong mọi chiều kích của đời sống. Lòng biết ơn vừa giúp chúng ta nhìn thế giới với cả bề rộng chiều sâu của nó (như nó là), vừa biểu lộ cái tôi chân thực của chúng ta. Ronald Rolheiser, một tác giả của nhiều sách thiêng liêng, nói rằng: để trở nên một vị thánh, tâm hồn người ấy không có gì khác hơn là chỉ có thể ngập tràn sự biết ơn.[2] Theo Gustavo Gutiérres, một thần học gia giải phóng, thì duy nhất người có lòng biết ơn mới có thể biến đổi thế giới tục hóa này.[3]

Một sự biến hình theo tinh thần của Chúa Giê-su phải trải qua một quá trình hun đúc và uốn nắn con tim mình hướng tới lòng biết ơn. Một phương cách hiệu quả nhất để có được lòng biết ơn là thực tập những lời cầu nguyện tạ ơn mỗi ngày. Không phải thỉnh thoảng chúng ta dâng lời tạ ơn khi có một điều may mắn ngoại thường nào đó xảy đến với chúng ta. Đúng hơn, lời tạ ơn của chúng ta phải liên tục nối dài ngày qua ngày. Như thánh Phao-lô đã nói: “hãy cầu nguyện không ngừng; (và) hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh” (1 Tx 5, 17b-18a). Để làm cho lòng biết ơn của mình trở nên phong phú và lớn mạnh, chúng ta cần tạ ơn Chúa ngày đêm, bất kể khi nào chúng ta có cơ hội và trong suốt cuộc đời của chúng ta.

Ngoài ra, lời tạ ơn chung chung về mọi thứ là không đủ. Lời tạ ơn của chúng ta phải cụ thể như: tạ ơn về sức khỏe của tôi, về thị lực của tôi, về trí khôn và về kinh nghiệm sống của tôi… Chúng ta cũng có thể dâng lời tạ ơn để cám ơn những người bạn, những thân nhân, những ân nhân của chúng ta, cũng như cám ơn tất cả những ai hay những biến cố sự kiện nào đã giúp hình thành nên tôi trong những năm qua. Danh sách những lời tạ ơn này thật là vô cùng tận. Chúng ta cám ơn hoài, cám ơn mãi mà chẳng bao giờ hết được.

Dầu vậy chúng ta lại có khuynh hướng lập một danh sách, ít là trong đầu của chúng ta, về tất cả những phàn nàn của chúng ta, về mọi thứ mà chúng ta cần hoặc ước muốn và về những gì chúng ta không có. Chính vì thế chúng ta thường thấy rất nhiều những lời nguyện dâng lên Thiên Chúa chỉ để cầu xin điều này điều nọ, mà ít thấy những lời tạ ơn được dâng lên. Dĩ nhiên lời cầu xin không phải là không cần thiết nhưng chúng ta cần biểu lộ lòng biết ơn ra nhiều hơn nữa vì vô vàn ân huệ mà chúng ta đã nhận được. Tác giả David Steindl-Rast, trong cuốn sách của ông với tựa đề Lòng Biết Ơn, tâm điểm của cầu nguyện[4] đã định nghĩa cầu nguyện là “sống biết ơn”.[5] Meister Eckhart[6] có lần cũng đã nói: “Nếu như lời cầu nguyện duy nhất mà chúng ta có thể dâng lên Thiên Chúa là Tạ Ơn, thì như thế cũng đã đủ rồi.

Tuy nhiên cái ngã (ego) lại là một kẻ lừa bịp tinh ranh. Những lời tạ ơn của chúng ta cũng có thể dễ dàng trở thành ích kỷ bởi cái ngã có thể dùng ngay cả những lời tạ ơn ấy của chúng ta để phục vụ cho mục đích ích kỷ của nó.

Nếu tôi cảm tạ Chúa vì mọi ơn lành tôi có và tất cả những ơn ấy đã được ban cho tôi, mà trong lòng không có chút biết ơn đối với những gì mà cũng đã được ban cho người khác, thì lời tạ ơn của chúng ta sẽ hoàn toàn mang tính ích kỷ. Tạ ơn Chúa vì tôi có đủ thức ăn trong khi nhiều người khác đang đói lả. Tạ ơn Chúa vì tôi khỏe mạnh trong khi những người xung quanh tôi lại ốm đau tật nguyền. Tạ ơn Chúa vì tôi an toàn trong khi tôi chẳng cần biết đến những người bên cạnh tôi có an toàn hay không. Tạ ơn Chúa vì tôi lương thiện và từ tâm không giống như những người khác. Đó là lời cầu nguyện của người Pha-ri-sêu trong dụ ngôn theo thánh Luca: “Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia” (Lc 18, 10-11). Đó không phải là lời cầu nguyện xuất từ lòng biết ơn thật sự. Nó chỉ là sự ích kỷ và kiêu ngạo của cái ngã tự tôn.

Một tâm hồn biết ơn sẽ tạ ơn Chúa về mọi điều tốt lành có được trong đời sống của tôi cũng như trong đời sống của những người khác. Có thể thật khó khăn để tạ ơn Chúa về những may mắn, những thành đạt, những món quà, và những người bạn mà người khác có, nhưng tôi lại không có. Nhưng đó chính là thách đố cho lòng biết ơn đích thực. (Tất cả những cái khác chỉ là ghen tuông và đố kỵ.)

Chúng ta dễ dàng tạ ơn Chúa về những gì mình có, trong khi đó chúng ta lại ghen tị với những người có nhiều hơn mình hoặc những người mà họ có những thứ chúng ta ước muốn. Khi một ai đó được người ta thích hơn là thích tôi, thay vì tạ ơn Chúa thì tôi lại cảm thấy ghen ghét vì người đó được yêu và được đón nhận. Một tâm hồn biết ơn thật sự sẽ hân hoan vui mừng trước số phận may mắn của mọi người và của mỗi người.

Một tâm hồn biết ơn cũng sẽ đọc được những dấu chỉ của thời đại với một ánh mắt mong muốn điều tốt nhất đến với mọi người chứ không chỉ cho riêng mình mà thôi. Cái tôi thực của tôi sẽ cảm kích khi nhận thấy rằng thần khí vẫn đang hướng dẫn con người hôm nay tìm kiếm một nền linh đạo mới. Cái tôi ấy sẽ mừng vui với những thành quả đạt được từ các cuộc đấu tranh cho công bình. Ở bất cứ nơi đâu trên thế giới mà có lòng trắc ẩn và bình an thì chúng ta đều có thể học được từ nơi đó lòng biết ơn tự sâu thẳm trái tim mình. Người biết ơn thật sự sẽ hạnh phúc để khám phá rằng những người không cùng tôn giáo của mình cũng có thể dạy mình nhiều điều nhằm giúp siêu việt hóa cái ngã của chính mình. Chúng ta cảm tạ ơn Chúa vì điều đó.

Hơn hết chúng ta cần cảm tạ Chúa vì những phát minh mới trong khoa học, những khám phá về sự giãn nở của vũ trụ với tất cả chiều kích nhiệm mầu của nó. Bởi vì những phát minh khám phá ấy sẽ đem lại một thuận lợi rất lớn cho các thế hệ mai sau. Chúng ta cũng cảm tạ Chúa khi có ngày càng nhiều người ý thức về những tai hại của chủ nghĩa cá nhân cũng như nhận thức về sự hủy diệt mà chúng ta đang đối diện. Những nhận thức ấy có thể được coi là 'trong cái rủi vẫn có cái may'.

Một điều nữa chúng ta có thể nói thêm ở đây là những lời nguyện tạ ơn cũng chứa đựng một sự biến hình tận căn. Khi chúng ta thực tập mỗi ngày cầu nguyện với lòng biết ơn, chúng ta sẽ cảm nhận được sự thay đổi về thái độ sống của chúng ta. Cầu nguyện như thế sẽ giúp chúng ta yêu mến - tôn trọng sự sống, con người và Thiên Chúa nhiều hơn. Ở mức độ nào đó, thái độ sống ấy sẽ làm thay đổi nhân cách của chúng ta.

Nếu chúng ta học nhìn mọi thứ trong đời sống như những quà tặng nhưng không, thì chúng ta không còn nhăn nhó bực bội khi chúng ta kinh nghiệm cuộc sống này thật cực khổ chẳng khác gì kiếp trâu ngựa, ngày ngày vật lộn cách nhàm chán với hết vấn đề này đến vấn nạn khác. Thay vì trong lòng đầy ắp những lo âu, phàn nàn, bi quan và chẳng hài lòng với bất cứ điều gì, thì với lòng biết ơn, chúng ta sẽ cảm thấy hạnh phúc, mãn nguyện và tri ân với những gì chúng ta đang có. Chúng ta sẽ tôn trọng và đánh giá cao sự tốt lành nơi người khác thay vì hoài nghi, chỉ trích hay chỉ thấy được những tiêu cực nơi họ mà thôi.

Một tâm hồn dạt dào lòng biết ơn cũng sẽ thay đổi thái độ của mình đối với Thiên Chúa. Tôi không còn nghĩ rằng Thiên Chúa là Đấng Tốt Lành và tôi tin điều ấy chỉ vì tôi được dạy bảo như vậy. Giờ đây tôi cảm thấy rằng Thiên Chúa là Đấng Tốt Lành và Thiên Chúa yêu tôi cũng như yêu hết thảy mọi người.

Siloha
Chuyển ngữ


[1] Theo Albert Nolan, Jesus Today – A Spirituality of Radical Freedom, (New York: Orbis Books, 2006), chương 10: “With a Grateful Heart”, 111-116.

[2] Ronald Rolheiser, The Holy Longing: The Search for a Christian Spirituality (New York: Doubleday, 1999), 66.

[3] Ibid., 67.

[4] Gratefulness, the Heart of Prayer

[5] Steindl-Rast, Gratefulness, 59.

[6] Meister Eckhart là một tu sĩ người Đức thuộc Dòng Đa-minh, là thần học gia, triết gia và là một nhà huyền nhiệm thời Trung Cổ.

Sunday, May 13, 2012

Kỷ niệm 400 năm CÁCH MẠNG TRUYỀN GIÁO DI NOBILI BÊN ẤN

Hoành sơn

Năm 2010 vừa qua, cả thế giới (gồm Trung Quốc luôn) đã tưng bừng khánh niệm 400 năm ngày ly trần tại Bắc Kinh của một nhân vật vĩ đại, cha Matteo Ricci, được ngưỡng mộ vừa như người tiên phong trong giao lưu khoa học-văn hóa Đông-Tây, vừa như một trong hai nhà truyền giáo, cũng tiên phong trong kế sách hội nhập văn hóa. Người tiên phong thứ hai về mặt này, đó là cha Roberto Di Nobili, cũng người Ý (và Dòng Tên). Phải chăng vì dân Ý là dân cởi mở nhất bên Tây trong việc tiếp thu ánh sáng của những nền văn minh xa lạ? Chúng ta nên nhớ, vào thế kỷ XIII, cũng một người Ý khác là Marco Polo đã du hành Phương Đông, cho tới tận xứ sở các Con Trời (Thiên Tử), và nói về văn minh này với nhiều kính nể.

Năm 2010, tôi đã viết về Ricci, năm nay không thể tôi không nói về Di Nobili nhân 400 năm (1612-2012) cuộc Cách mạng truyền giáo của cha bên Ấn Độ. Tôi nói CÁCH MẠNG TRUYỀN GIÁO, vì tuy việc trruyền giáo đã khởi sự từ trước ở đấy, nhưng cách làm của cha đi ngược hẳn cách làm của những thừa sai tiền nhiệm, do đó gây sóng gió lớn, không những làm cha đau khổ, mà còn khiến thiệt hại cho việc Phúc âm hóa đất nước đông dân thứ hai của thế giới ấy.

Tình trạng xã hội Ấn và ngõ cụt truyền giáo

Không dân tộc nào sùng đạo như dân Ấn, nhưng cũng không đất nước nào bị phân hóa xã hội cho bằng đất nước Nam Á này..

Về mặt tôn giáo, tuy Ấn giáo chia thành hai ngành, ngành lấy Vishnu làm thượng thần, ngành lấy Shiva làm đấng tối cao, nhưng các thần đều được thờ chung ở cả hai bên. Sống đạo cũng vậy, cư sỹ (tín đồ tại gia) tới cầu nguyện ở đền thờ, còn tu sỹ sống một mình trong rừng hoang hay sơn cốc, nhưng hai bên không hề va chạm nhau.

Về mặt xã hội thì khác hẳn. Dân Ấn chia thành những giai cấp cha truyền con nối, tức tập cấp (castes), và giữa những tập cấp khác nhau, người ta không kết hôn với nhau, tránh tiếp xúc với nhau. Thậm chí một số người bị loại khỏi tập cấp (outcastes), trở thành dơ dáy, được gọi là Candala (sanskrit), Dalit, Pariah (tamil), nghĩa là BẤT KHẢ XÚC ( Intouchables, Untouchables). Theo niềm tin lâu đời, sự phân cấp ấy là tự nhiên. Kinh Veda cho biết, từ Con người nguyên sơ Purusha[1] bị sát tế, các thần đã phân chia thân thể ấy mà làm nên bốn tập cấp cao thấp khác nhau:

Khi các thần phân xẻ Con người,

Họ làm nên mấy phần?

Miệng thành gì, cánh tay thành chi?

Là gì cẳng chân, là chi bàn chân?

Miệng thành tế sư (brahmana)

Cánh tay thành chiến tướng (ksatriya),

Cẳng chân nên công-nông (vaisya),

Bàn chân nên nô bộc (sudra).

Rigveda X.90

Có điều quyển X của sách Rigveda tập hợp những bài kinh khá mới, riêng bài kinh 90 chỉ có mặt sau công nguyên, cốt ý giải thích một tình trạng xã hội sẵn có rồi, đồng thời xác định địa vị cao nhất của tế sư. Chứ hẳn nhiên trước đó, địa vị cao nhất phải thuộc về giai cấp cai trị là ksatriya (do chữ ksatra là việc cai trị) từ đó chọn ra vua và những sỹ quan trong quân ngũ cùng với người cai quản trong vương quốc. Bằng chứng được tìm thấy trong bộ sử thi vĩ đại Mahâbhârata được hoàn tất vào thế kỷ II trước công nguyên, trong đó rõ ràng địa vị của vua và ksatriya là cao nhất.

Thật ra, cách đây 3500 năm sau khi dân Ârya từ Tây-Bắc sang xâm lăng Ấn Độ, tại xứ sở này chỉ có hai giai cấp : giai cấp thống trị là Ârya da trắng, giai cấp bị trị, gọi daisyu hay man di, là người Ấn da đen. Chính vì thế, tiếng dùng để chỉ tập cấp là Varna, nghĩa là mầu sắc, sắc da. Phân biệt thống trị-bị trị nay đã đổi thành phân biệt theo ngành nghề, nhưng tiếng Varna thì vẫn được dùng để chỉ tập cấp.

Có bốn tập cấp chính : tế sư, vương tướng, công nông và nô bộc, trong đó chỉ ba tập cấp trên có khả năng tôn giáo. Thật ra, khả năng ấy đầy đủ nhất là ở tập cấp tế sư, balamona (brahmana). Và cũng chỉ balamona mới học hành cao, và phải cố sống theo bốn giai đoạn (âsrama) của bộ luật Manu : lúc niên thiếu thì làm tập sinh (brahmacârin), thụ huấn với một sư phụ; lớn lên thành cư sỹ (grihastha), nghĩa là lập gia đình, có bổn phận tế tự; khi đã lo cho con cái thành gia thất thì vô ẩn tu trong rừng; đợi khi lòng thoát tục, sẽ đi lang thang và trở thành tu sỹ bỏ đời, chờ ngày giải thoát hay giác ngộ.

Như đã nói trên, thuộc tập cấp khác nhau thì khó tiếp xúc với nhau. Nhất là không thể tiếp xúc với người ngoại tập cấp (outcastes), vì bản chất họ dơ dáy, bất khả xúc (untouchables). Chỉ cần bóng họ đi qua, phủ lên thức ăn, là thức ăn ấy phải đổ đi, không ăn được nữa. Biết như thế, ta mới hiểu sự trruyền giáo xuyên tập cấp là điều khó khăn thế nào.

Sự bế tắc truyền giáo ở Madurai vào đầu thế kỷ XVI

Madurai là một thành ph lớn, nay thuộc bang Tamil Nadu với thủ phủ Chennai (xưa là Madras) .. Về phía đối diện ở Tây Nam có căn cứ quân sự của Bồ Đào Nha tại Goa, từ đó hải quân Bồ có thể kiểm soát toàn vùng bờ biển Nam Ấn. Do đó, người Bồ theo sang đấy buôn bán và truyền giáo. Họ đi sâu vào đất liền, ở đó có những tiểu vương quốc như Madurai.

Theo đạo lúc ấy rất ít người, và hết thảy thuộc tập cấp Bất khả xúc (Pariah, Dalit). Trưc hết, đó là dân Paravers mò ngọc trai. Vì bị người Hồi đoạt hết miếng ăn và đàn áp khốn khổ, nên họ chạy đến xin quân Bồ che chở, và quân Bồ đánh đuổi lũ cướp biển Hồi giáo, giúp Paravers trở lại với nghề mò ngọc trai cũ. Do đó mà họ theo đạo đông. Cho đến năm 1537, tất cả đã chịu Phép rửa, khoảng hai chục ngàn người, nhưng gần như không được dạy dỗ gì, lại chỉ có một linh mục coi sóc thôi. Năm 1542, thánh Phan sinh Xavier tới, thấy họ dốt giáo lý quá, nên dừng lại một thời gian để dạy.

Loại người thứ hai theo KTG là một số rất ít những cô gái thuộc tập cấp rất thấp hay ngọai tập cấp, họ theo đạo để lấy chồng Bồ, nhờ đó được cấp phát nhà cửa và ruộng đất tịch thu từ người Hồi giáo.

Người theo KTG thuộc cả hai loại, đều ăn mặc như Bồ, ăn thịt như Bồ và sống theo cách Bồ, nên họ bị người Ấn ghê tởm và xa lánh. Nhất là từ khi có sắc dụ 1546 của vua Bồ, ra lệnh cấm thờ thần tượng trong vùng thuộc địa của Bồ Đào Nha; riêng tế sư nếu bị bắt quả tang tiếp tục hành nghề, sẽ bị tù khổ sai và tịch biên gia sản. Vì thế, người Ấn càng ghét Bồ và ghét người theo đạo Bồ, mà họ gọi là Prangui một cách khinh bỉ. Không may là các thừa sai, phần vì dốt tiếng Tamil và không hiểu phong tục Ấn, phần khác ít tiếp xúc với người Ấn học thức nên không hiểu họ nghĩ gì, nên tự đồng hóa mình với Prangui, để rồi thay vì hỏi ai đó có muốn theo Kytô giáo không, thì lại hỏi :-Có muốn gia nhập tập cấp (markam, vedam, kulam) Prangui không?

Như thế, làm gì có ai vì tôn kính mà theo Kytô giáo đây? Sau 12 năm trời làm việc, cha sở Fernandez không kiếm nổi dù chỉ một tân tòng, đành làm phép rửa gấp gáp “in articulo mortis” cho mấy kẻ hấp hối, thế thôi. Tình trạng bi đát đến nỗi cha Giám tỉnh dòng Tên Laerzio phải than thở :

-“Sự ghê tởm của dân Ấn đi với người Bồ hay Prangui, đi kèm với nỗi lo mất danh hiệu quý tộc để rồi bị (đồng bào) khinh bỉ mãi mãi, chính những điều ấy khiến người ta không cách nào theo Kytô giáo được. Truyền giáo kiểu này, đi đôi với sự dốt tiếng Tamil, đã gây những hiểu lầm thực vô cùng tai hại.”

Đang lúc cha Laerzio và đức Tổng giám mục Roz, cũng dòng Tên, lâm cảnh bế tắc không lối thoát như thế, thì Trời gửi đến cho họ một cứu tinh, cha Roberto Di Nobili!

Cha Di Nolili và cuộc cách mạng truyền giáo ở Madurai

Roberto sinh năm 1577 ở Roma, từ dòng họ quý tộc danh tiếng Di Nobili, trong đó có giáo hoàng Julius III (trị vì từ 1550 đến 1555) và một số hồng y, mà vị đang sống lúc ấy là hồng y Sforza, con nữ bá tước Sforza Di Santa Fiore. Hồng y này, vì thấy Roberto học rất giỏi, nên đặt nhiều kỳ vọng vào người em họ của mình, mong ít là cậu cũng trở thành hồng y như mình.

Thế nhưng Roberto lại nuôi một tham vọng ngược lại, cậu muốn vô dòng Tên, mà dòng này muốn các thành viên phải lánh xa những chức tước như hồng y và giám mục. Thế là hồng y Sforza bèn vận động cả gia tộc chống lại ý định trên của Roberto, khiến cậu bé 16 tuổi phải “đào vi thượng sách”, một mình vượt biên giới đến ẩn lánh ở vương quốc Napoli, trong dinh của nữ công tước Di Nocera, tên Anna Carafa. Bà này cho cậu hầu cận hai năm bên mình, và giúp cậu tiếp tục việc học. Trong khi ấy, bà cũng dùng thế lực của mình mà vận động gạt bỏ những rào cản từ phía gia tộc Di Nobili. Cuối cùng, một cách “không kèn không trống”, Robeto đã có thể vô tập viện dòng Tên ở Napoli. Sau nhà tập, Roberto theo đuổi việc học ở Napoli, rồi Roma, kế đó thụ phong linh mục năm 1603.

Ngay khi còn ở nhà tập, Roberto đã bày tỏ ý nguyện muốn được đi truyền giáo bên Ấn. Một lần nữa, sóng gió lại nổi lên từ phía dòng tộc Di Napoli, nhưng Roberto cương quyết giữ nguyên ý định của mình. Cuối cùng, cha Tổng quyền D.T. Aquaviva phải can thiệp, và gia tộc Di Nobili chịu lui bước.

Với ý chí kiên cường đi đôi với tài học như vậy, lắm người đã thấy trước được những gì phi thường cha sẽ thực hiện ở phương trời xa xôi kia.

*

Di Nobili xuống tầu năm 1604 và cập bến Goa một năm sau. Tại đây, cha bệnh tưởng chết. Sau khi khỏi bệnh, cha được Giám tỉnh Laerzio điều tới làm việc ở Madurai.

Ở Madurai, Roberto thấy rõ sự bế tắc truyền giáo, và sau một thời gian ngắn tìm hiểu, cha nhìn ra căn bệnh. Căn bệnh ấy là sự kém hiểu biết về địa phương của thừa sai, sự khinh bỉ của dân Ấn đối với cái mà họ gọi là “Đạo người Bồ”, cũng là sự lẫn lộn Kytô hữu với Prangui.

Vì thế, để bắt đầu, cha ra ở riêng để khi dính dấp tới người Bồ và Prangui. Đồng thời, cha dành hết thời gian để học kỹ ngôn ngữ Tamil, không phải thứ Tamil bình dân, mà Tamil văn học. Cha cũng học kỹ tiếng Sanskrit, nhờ đó đi sâu vào Veda và các kinh thư khác của Bàlamôn giáo[2]. Qua hai ngôn ngữ này, dần dà cha nắm vững được các vấn đề văn hóa-xã hội-tôn giáo của chung xứ Ấn và của riêng miền Nam.[3]

*

Bằng cách ra ở riêng, ăn vận và sống theo kiểu các tu sỹ bỏ đời, cha tỏ ra cho thấy cha thuộc dòng quý tộc Roma, cũng là một samnyâsin sang truyền bá nền minh triết (vidya) đích thực. Quả thế, cha ăn chay chứ không ăn thịt như Prangui và người Bồ, cha cũng bỏ giầy mà đi guốc, lại mặc áo cà sa, quấn khăn, mang dây đeo balamona (có thánh giá) và để chỏm tóc kudumi. Cha lại sống cô độc, ở nơi thanh vắng và ít tiếp khách. Riêng về mặt kinh thư Ấn giáo, khi tranh luận cha có thể trưng thuộc lòng bất cứ đoạn nào, y như một balamona thông thái vậy. Số là cha được học với một balamona uyên bác, tên Shiva-dharma, và ông này, cảm phục vì đức độ và sự thông minh của cha, đã chép tay các kinh thư cho cha học, trong khi những sách thánh này, đáng lẽ chỉ hàng balamona mới có quyền tiếp cận thôi.

“Tiếng lành đồn xa, tiếng dữ đồn xa”, chẳng bao lâu khắp xứ nghe bàn tán về nhà tu hành quý tộc da trắng ấy, và khá nhiều balamona cùng quan chức Madurai bắt đầu xem cha như một guru (hiền triết sư phụ) để sẵn sàng nghe cha giảng thuyết. Cha thuyết cho họ về thứ Pháp (dharma) Kytô giáo, mà cha không gọi là đạo Prangui. Cha cũng cho họ biết, muốn thành đệ tử của cha, người ta không phải bỏ tập cấp của mình và những thói tục đi theo tập cấp ấy. Vâng, ai là balamona thì vẫn là balamona, cứ việc đeo dây balamona, giữ chỏm tóc kudumi, dùng bột trầm và làm các nghi thức tắm rửa. chỉ cần thay các lời kinh cũ bằng lời kinh Kytô giáo, khi đeo dây chẳng hạn. Tiến xa hơn nữa, thay vì đặt tên Bồ cho người chịu Phép rửa, cha lấy tên tamil hay sanskrit đặt cho họ, như Devadatta (Thiên Chúa-được tặng trao),v.v…[4]. Cha cũng thích nghi trong vấn đề cúng cơm-sữa ngày đầu năm, bằng cách cứ cho cúng, nhưng thay vì cúng trước thần tượng, thì cúng trước thánh giá, thế thôi. Cha còn ban phép lành cho cơm-sữa dùng để cúng nữa.

Dĩ nhiên là trước khi thi hành những thay đổi như thế, cha đã thỉnh ý cha Giám tỉnh, còn vị này thì bàn với Đức cha Roz. Cả hai vị, cùng với đức Giáo trưởng Goa đặt rất nhiều kỳ vọng vào phương pháp mới này, mong rằng nó mở được cánh cửa Madurai và Ấn Độ nói chung cho Phúc âm hóa.

Và xảy ra đúng như vậy. Ngay năm đầu tiên đã có năm chục tân tòng, trong số đó có chính balamona thông thái Shivadharma, thầy dạy ngôn ngữ của cha. Ông này, sau 20 ngày tranh luận với cha, mỗi ngày năm giờ, đã chịu khuất phục và chịu Phép rửa dưới tên mới là Alberto. Một khi đã thành Kytô hữu, ông trở nên một nhà truyền giáo hăng say, và nhiều người quý tộc theo gương ông.

Cánh cửa đã mở, và thành công lớn không ngờ, khiến Đức cha Roz phải reo lên trong bức thư gửi cha Tổng quyền Aquaviva như sau :

-“Thế là cha Roberto tốt lành ấy đã đi trước hết mọi người -tôi tin như thế-, để nhờ sự linh ứng rất đặc biệt của Chúa Thánh Thần, cha tiến vào thành phố Madurai vĩ đại, thủ đô của thần tượng cũng như của nền bác học balamona… Cha đã ăn mặc và sống theo người địa phương, từ bỏ hết mọi tiện nghi thể xác cùng với quốc tính của mình. Cha đã học được ba ngôn ngữ rất khó [tamil, sanskrit, telougou], đã hiểu sâu những bí nhiệm thần thánh Ấn Giáo… Tôi đã trao đổi với cha Roberto về ngôn ngữ và phong tục địa phương. Nghe cha, tôi rất ngỡ ngàng. Tôi nghĩ mình cũng nắm được phần nào ngôn ngữ [tamil] ấy, nhưng tôi phải thề trước Phúc âm rằng : không ai có thể ngờ cha đã thể hiện ngôn ngữ nói trên một cách tự nhiên đến vậy, cũng như đã sống khổ hạnh đến độ ấy.

…………………………………………………………….

“Sau khi đức Giáo trưởng Menezès biết truyện, nhất là khi thấy cha Roberto đã lôi kéo được một số balamona vào đạo, thì Ngài cảm động vô cùng. Ngài còn thêm câu phát biểu tuyệt vời như sau; “Tạ ân Chúa nếu số người sống đạo hạnh theo gương cha Roberto cũng đông bằng số kẻ gièm pha lối sống của cha! Riêng tôi, tôi chẳng ngại đeo sáu trăm dây balamona chỉ vì sự cứu độ dù của một linh hồn!”

Và cứ vậy công cuộc truyền giáo tăng tốc. Nên nhớ, không như trước kia khi người theo đạo là kẻ ít học, và họ theo đạo chỉ vì cái lợi vật chất trước mắt thôi. Chứ người theo đạo bây giờ là người có học,: họ tự đến nghe giảng, tranh luận, rồi mới quyết định. Công việc tuy bận rộn, nhưng đầy hưng phấn, và một số linh mục, như cha Vico, cũng tới gia nhập đoàn quân viễn chinh. Dù bị cấm làm phép rửa trên mười năm, nhưng khi cha Roberto qua đời năm 1656, đã có 40.000 người theo đạo. Con số sẽ thành 75.000 vào đầu năm 1688, và vào đầu thế kỷ sau, vọt tới trên 100.000.

Đất bằng nổi sóng

Một cuộc thay đổi lớn, đến đảo lộn tất cả như thế, sao khỏi gây sóng thần.

Sóng gió bắt đầu từ chính hàng tế sư Ấn Độ giáo. Trước đó, chỉ có ngoại tập cấp theo “đạo Bồ” thôi, nên không mấy ai quan tâm. Nhưng nay thì đã có hàng quý tộc, thậm chí balamona tới làm đệ tử người samnyâsin xa lạ kia, nên sự việc ấy làm chấn động Madurai. Hàng tế sư bèn tới kiện nơi tiểu vương Nayakker. Theo họ, thì Roberto vô thần, phá bỏ việc thờ cúng Vishnu và Shiva. Nhân dịp đang có nạn hạn hán, họ bèn đổ tội cho cha, rằng đây là hình phạt do các thần giáng xuống vì sự phạm thánh của cha.

May mắn thay khi ấy, một bạn thân của cha rất có thế lực tại triều đình đứng ra bênh đỡ cha. Không chịu thua, 800 tế sư tập họp lại để nghe một người tố cáo cha. Lần này, chính ông thầy dạy ngôn ngữ cho cha đứng lên phản bác. Ông nói khéo léo đến nỗi, thay vì luận tội cha, các tế sư lại đem lòng kính trọng nhà tu hành thoát tục da trắng ấy.

Một lần khác, trong đám dân mò ngọc trai có kẻ tới xúi dục đệ tử cha, rằng họ bị cha đánh lừa, rằng chính cha cũng chỉ là một prangui, và thứ muối cha cho họ ăn lúc chịu phép rửa, cũng như chính phép rửa, đều thuộc nghi thức gia nhập prangui. Thế là nhốn nháo cả lên, và một số bỏ cha. Không sao được, cha đành phải viết rõ trên lá tán treo trước cửa nhà, rằng cha thuộc dòng quý tộc Roma, chứ không phải prangui gì cả.

Dẫu sao chăng nữa những khó khăn từ phía dân Ấn chỉ là chuyện nhỏ so với những chống phá cha gặp từ chính anh em đồng đạo của mình, các thừa sai dòng Tên.

*

Quả thế, sóng gió nổi lên từ phía anh em dòng Tên, bắt đầu là cha Gonsalo Fernandez.

Để giúp cha Roberto dễ thi hành kế sách mới, cha Giám tỉnh Laerzio bèn sai cha Fenandez đi công tác một thời gian ở bờ biển. Lúc trở về, cha này thấy cha phụ tá làm đảo lộn tất cả, và hình như muốn dạy mình một bài học.

Quả vậy, Roberto bỏ hẳn cách sống quen thuộc của các thừa sai. Cha ăn mặc theo địa phương chứ không theo Bồ, nói tiếng Tamil chứ không nói tiếng Bồ, ăn chay chứ không ăn mặn như các anh em khác. Nhất nữa còn tuyên bố thẳng thừng: để thành Kytô hữu, người ta không phải trở thành Prangui, lại cứ việc giữ nguyên cách phục sức và tắm rửa theo tập cấp của mình. Nên nhớ, cách phục sức và tắm rửa đó vẫn bị các thừa sai coi là dị đoan. Sự việc càng trở nên rắc rối khi Roberto rời bỏ xứ đạo mà ra ở riêng, rồi làm nhà thờ riêng luôn.

Tức giận, Fernandez đi gõ cửa mọi nơi để kiện. May mắn cho cha, đúng lúc ấy, có một Kinh lược sứ (Visiteur) đến thanh tra hai tỉnh dòng Tên là Goa và Malabar. Đây là cha Nicolas Pimenta. Vừa là người Bồ, vừa có định kiến là phải y theo phương pháp truyền giáo cũ, nên ngài chỉ nghe Fernandez và làm ngơ trước mọi lời trần tình của Roberto, cũng như ý kiến của Giám tỉnh Laerzio, của Tổng giám mục Roz, của Ban tư vấn Tỉnh dòng, của những Kytô hữu được vời đến điều tra. Tệ hơn nữa, Pimenta còn ra lệnh ngưng chức Laerzio và thay thế bằng một giám tỉnh mới thuộc phe mình.

Trong khi ấy ở Roma, với các báo cáo của Kinh lược sứ, người ta tưởng như Roberto đã ci đạo sang Ấn giáo, khiến cả những bạn thân của Roberto, như hồng y Bellarmino, cũng trách cứ cha. Năm 1613, cha Tổng quyền Aquaviva gửi thư sang Madurai, tuy vẫn ủng hộ cách làm của Roberto, nhưng phải tỏ ra dè dặt hơn, khiến Pimenta và giám tỉnh mới có thể giải thích thư ấy theo hướng suy nghĩ của mình, nhờ đó thắt chặt hoạt động của nhóm Roberto. Vâng, giám tỉnh mới, một mặt ngăn chặn thư từ trao đổi giữa Roberto với Đức cha Roz, mặt khác cấm cha không được làm thêm Phép rửa nào nữa. Phe địch còn tìm cách mua chuộc một vài đệ tử của Roberto để họ bỏ cha và đứng lên tố cáo cha.

Thế nhưng, chưa kịp hoàn thành ý nguyện là bãi bò sứ vụ Roberto, thì giám tỉnh mới đột ngột qua đời năm 1615. Cùng lúc, Roma cũng hiểu ra vấn đề, và cả Aquaviva lẫn Bellarmino đều trấn an Di Nobili. Rồi khi Tổng giám mục mới của Goa muốn ép cha từ bỏ kế sách truyền giáo của mình, thì năm 1616, bằng đoản sắc (bref) Cum sicut Fraternitas, Đức Phaolo V hết lòng khen ngợi Di Nobili và căn dặn phải nghiên cứu kỹ phong tục xứ Ấn để thích nghi trong việc truyền giáo. Đến lúc Tổng giám mục nói trên quay sang Tòa Thẩm sát (Inquisition) Lisbonne để xin kết án cha, thì Thẩm sát trưởng lại khuyên ông phải tuân phục Tòa Thánh.

Không chịu thua, Tổng giám muc Goa bèn tổ chức một cuộc tranh luận công khai, với thành phần tham dự phần lớn là người do ông đưa vào. Biết việc ấy, Tòa Thánh cho phép Roberto được tranh cãi bình đẳng với Tổng giám mục. Vì người tham gia hội thảo hầu hết là của Tổng giám mục, nên ông thắng trong bỏ phiếu, trong khi Kinh lược sứ mới cùng với các thần học gia lại ngả theo lập luận của Di Nobili. Bất chấp tất cả, Tổng giám mục bèn vận động lần nữa với Roma để hạ gục cha, trong khi Thẩm sát trưởng ở đây lại gửi báo cáo tán thành việc làm của cha, có kèm theo lời chứng của 130 balamona, họ trưng dẫn kinh thư Ấn giáo để xác nhận bản chất dân sự (civil) của các tập tục mà cha cho phép.

Cuối cùng, bằng sắc dụ (bulle) Romanae Sedis Antistites ký năm 1623, Đức Gregorio XV chính thức cho phép các balamona theo đạo được đeo dây balamona và để chỏm tóc kudumi.

Mười hai năm sóng gió (1613-1624) và bị cấm làm phép rửa, đã khiến công cuộc truyền giáo của nhóm người cách mạng bị chựng lại rất nhiều. Sóng gió ấy nay đã yên, cha Roberto đi lập thêm căn cứ ở những vùng xa xôi, như Tiruchirapalli và Salem. Tại đây, nhiều học giả đến nghe cha thuyết, và một vương gia gửi gấm bốn con trai cho cha dạy dỗ, để rồi cả nhà xin theo đạo. Trở lại Madurai, cha gặp một pandaram đến xin học đạo. Pandaram không phải tập cấp cho bằng một loại người từ nhiều tập cấp miền Nam làm nên. Họ thuộc Shiva giáo, có đeo biểu tượng linga trên người. Họ có thể là người phục vụ trong đền thờ như một thủ quỹ, hay thầy tế ở đền thờ làng... Họ cũng có thể làm tu sỹ khất thực nhưng thuộc tập cấp thấp. Hàng quý tộc không khinh rẻ pandaram, mà pandaram lại không ngại tiếp xúc với tập cấp thấp và ngoại tập cấp. Thấy thế, cha De Nobili bèn nảy ra ý định dùng pandaram để truyền giáo cho những tập cấp này. Điều may mắn là anh chàng pandaram xin học đạo, sau khi theo đạo đã trở thành nhà truyền giáo rất năng nổ, khiến qua anh ta, rồi qua một linh mục Bồ tự cải thành Pandaramsvâmin (pandaram-sư phụ), cha đưa về cho Chúa cả ngàn con chiên. Riêng anh pandaram đầu tiên theo đạo, vì bỏ đạo Shiva và hăng say truyền đạo mới, nên bị chính đồng đạo cũ của mình giết. Và đây là tử đạo đầu tiên của vùng trời phía Nam. Tử đạo thứ hai ở đó sẽ là thánh Gioan De Brito, một quý tộc dòng Tên Bồ. Cha tới Madurai khi Di Nobili mới qua đời. Cha cũng làm Samnyâsin theo gương Di Nobili và mang được mấy chục ngàn người về với Chúa.

Tuy biển đã lặng, nhưng vẫn còn những cơn giông nho nhỏ. Nhất là khi về già, cha không được sống già giữa những người thân tín và con chiên của mình. Lấy cớ là để cha được nghỉ hưu, người ta điều cha tới tận Sri Lanka từ 1646 đến 1648, rồi khi được trở về Ấn Độ, cha lại phải ở xa tít về phía Bắc của Tamil Nadu, tại Madras. Khi ấy cha đã 71 tuổi, hoàn toàn mù lòa, nhưng vẫn sống đời sống khổ hạnh của một samnyâsin. Cả Kytô hữu lẫn người Ấn giáo đều gọi cha một cách kính cần, là Cha thánh. Cha qua đời năm 1656.

Sau khi Roberto đã ly trần được 80 năm, cuộc tranh cãi về phương pháp mới một lần nữa được khơi dậy, gây thiệt hại thêm cho việc truyền bá Phúc âm. Phải chờ sang thế kỷ XX, cánh cửa mới được mở hẳn, và một số thừa sai, như Jules Monchanin và Henri Le Saux đã có thể tiến xa hơn Roberto Di Nobili trong con đường hội nhập văn hóa, mà chẳng ai bắt bẻ gì nữa. Đó là đi vào con đường tu luyện và huyền nghiệm của các sâdhu, và đây mới là thế mạnh của Ấn Độ huyền nhiệm. [5]

Nhìn lại để tổng kết

Với quan niệm Mọi người bính quyền-bình đẳng hiện nay, khó ai còn có thể chấp nhận sự kỳ thị giai cấp, nói chi đến chế độ tập cấp quá khắc nghiệt của Ấn Độ thời ấy. Gần đây, hiến pháp của Ấn Độ độc lập đã xóa bỏ tập cấp, tuy một số người bảo thủ vẫn cố níu kéo lại. Những nhân vật như M.K. Gandhi và R. Tagore, cùng với những phong trào canh tân như Brahmo Samaj đều cương quyết đấu tranh cho sự bình đẳng, và cho một tình huynh đệ không bất cứ biên giới nào.

Vì thế, để hiểu con đường truyền giáo dựa theo tập cấp của Di Nobili, chúng ta phải đặt mình vào thế kỷ XVI, XVII khi mà bên Tây phương vẫn còn nặng sự phân chia giai cấp, giữa một bên là hàng quý tộc và bên kia là các nông nô. Quả thế khi ấy, đất đai thuộc hết về lãnh địa của các công tước, hầu tước, bá tước, tử tước, nam tước. Dân chúng còn lại trở thành nông nô cho họ, làm cật lực mà chỉ được giữ lại phần nhỏ hoa mầu để tạm sống thôi. Và cũng chỉ hàng quý tộc mới được làm quan trong triều, làm tướng lãnh trong quân đội, làm giám mục hay tu viện trưởng trong tôn giáo. Vâng, khi ấy, cả trong Kytô giáo, người ta cũng chấp nhận sự phân biệt giai cấp như một điều tự nhiên, và chưa ai ý thức gì về quyền được đối xử bình đẳng của mọi người.

Trong thời kỳ mà cả bên Âu lẫn bên Ấn, người ta coi phân biệt giai cấp là điều tự nhiên như thế, Roberto Di Nobili chỉ có ý khai phá một con đường cho những giai cấp cao nói riêng, cho dân Ấn nói chung, có thể tiếp cận Tin mừng, thế thôi. Chính những kẻ chống đối cha, họ cũng không hề chống đối vì chủ trương bình đẳng, mà chỉ vì tưởng lầm việc đeo dây balamona và mang chỏm tóc kudumi, v.v.…là dị đoan. Điều đáng trách nơi họ, là trước khi đem Tin mừng đến một vùng trời xa lạ, họ đã không chịu đi sâu vào ngôn ngữ và văn hóa địa phương, hầu giúp Kytô giáo nhập thể vào văn hóa ấy. Vâng, vì kiêu ngạo, họ chỉ biết ban phát chứ không thèm ngửa tay ăn xin, điều ấy đi ngược với con đường nhập thể trọn vẹn của Ngôi Hai Thiên Chúa.



[1] Về huyền thoại Con người nguyên sơ trên thế giới và bên Ấn, xin đọc Hoành sơn Hoàng Sĩ Quý, Le mythe de l’Homme cosmique dans son contexte culturel et dans son évolution, trong Revue de l’Histoire des Religions, avril-juin 1969, tr.133-154.

[2] Ấn Độ giáo chia thành Vishnu giáo và Shiva giáo. Bàlamôn giáo là hướng đi tôn giáo truyền thống, đặt nền trên kinh thư cổ điển là các Veda, các Brahmana, các Aranyaka và các Upanishad.

[3] Tamil là ngôn ngữ phổ thông ở miền Nam ngay trước khi người Ârya tới. Có một nền văn học Tamil và một văn minh Tamil.

[4] Bên Tây phương, người ta quen lấy tên một vị thánh mà đặt tên cho con mình, nhưng không luôn như thế. Thánh Gemma chẳng hạn, vì bố mẹ già rồi mới sinh được một mụn con, nên quý như ngọc, và đặt tên Gemma, nghĩa là Ngọc; chứ trước đó, chẳng có thánh nào tên Gemma cả. Sau này, vì các thừa sai quen lấy tên một thánh mà đặt tên Phép rửa trong xứ truyền giáo, nên giáo luật cũ mới theo thói quen ấy mà ấn định làm như vậy, nhưng bên các xứ truyền giáo thôi. Nhưng đây là việc xảy ra sau này. Đến 1972, vì thấy việc đặt tên thánh không tốt cho hội nhập văn hóa, nên thánh bộ Phụng tự đã bãi bỏ.

[5] Xx. Hoành sơn, Một chứng từ của Đttg bề sâu : Henri Le Saux, trong Sống đạo với Phương Đông, tr. 14-24.

Monday, May 7, 2012

Học Nhỏ Để Sống Lớn

CHÚT SUY TƯ NHÂN NGÀY LỄ CẦU NGUYỆN CHO ƠN THIÊN TRIỆU


Một ngày nọ, vào năm 1975, ngay giữa chợ trời tấp nập người qua lại nơi cuối đường Trương Minh Ký, Sài Gòn, thi sĩ "điên" Bùi Giáng thong thả bước đến một cửa hàng bán phụ tùng xe đạp cũ, lặng lẽ vơ lấy cái "ghi đông" xe rồi tỉnh bơ bỏ đi như không có chuyện gì xảy ra. Thế là, bà chủ cửa hàng hoảng hốt, tức tốc chạy nhào ra đường, la toáng um sùm nhờ thiên hạ bắt "cái thằng ăn cắp." Chẳng cần ai đến bắt, ông bình thản đi trở lại để trả cái ghi-đông vào chỗ cũ và từ tốn nói: "Bà con thấy chưa, mất tất cả... mà phải câm, thế mà mất có cái ghi-đông thì la rầm trời! Kỳ khôi quá!"


Ồ! Nghĩ kỹ lại cũng nực cười cho phận kiếp người, nhưng sâu xa cũng thấy đáng thương làm sao ấy! Con người vẫn thường hoảng hốt hay giận dữ khi bị người khác lấy đi những cái "ghi-đông" của mình, hoặc có người suốt cả cuộc đời chỉ lo thu lượm mấy cái "ghi-đông", và sẽ trở thành giống như con trẻ thét rống lên khi bị chúng bạn giật lấy cây cà rem trên tay nó. Thế giới của người lớn, hiểu theo cách nào đó, cũng chẳng khác gì trẻ con. Người lớn cũng có những trò chơi cho riêng mình, cũng muốn chơi, cũng muốn thay đổi những món lạ, món mới... như xe mới, nhà mới, công việc mới, quần áo mới, đầu tóc mới, tương quan mới, và thậm chí, cả vợ mới, chồng mới... Nếu không được toại nguyện thì bực dọc, điên tiết... Tại Bắc Ninh (Miền Bắc) Việt Nam vừa qua, một ông chồng đã lấy búa đập liên tiếp vào đầu vợ khiến vợ chết ngay lập tức chỉ vì vợ không cho ông đi hát quan họ. Một người anh ở Vĩnh Long đã giết đứa em gái chỉ vì một miếng cá bị mất trên mâm cơm... Rồi nhiều cái chết, nhiều xung đột vẫn đang xuất phát từ những nguyên nhân rất bé nhỏ, thậm chí rất nực cười. Xét cho cùng, nếu có dịp dừng chân lại một chút để ngắm nhìn thế giới người lớn, chúng ta không khỏi buột miệng cười thầm, hay bật tiếng ha...ha..... vì hình như mọi cử chỉ, lời nói đều rất trẻ con! Các nhà nghiên cứu tâm lý học ngày nay cũng cho thấy điều đó.


Nhưng, nếu quan sát thật sự thế giới của trẻ con, thì hình như chúng ta không khỏi giật mình, vì xem ra trẻ con lại dạy người lớn chúng ta rất nhiều bài học vô giá thì phải.


Dành trọn một buổi chiêm ngắm bầy trẻ đang nô đùa tung tăng cùng nhau, chúng ta không khỏi cảm thấy xấu hổ khi nhìn lại bản thân người "lớn" của mình. Người lớn chúng ta không sống được như chúng. Người lớn chúng ta đang rất nghiêm nghị, đang rất đạo mạo, đang rất ư là trầm trọng hóa vấn đề. Chỉ khi chúng ta trở thành cụ ông cụ bà thì mới thấm thía cái lẽ tương đối trên cõi đời này! Vậy mà chúng ta vô minh hoang phí cả đời để trở thành người càng lớn càng tốt, càng muốn là người lớn thì chúng ta lại càng phải hết mình hết trí khôn để diễn trọn vai nghiêm túc và trầm trọng.


Thế giới của người lớn chúng ta đang quá nặng nề và căng thẳng! Nhất là những ai làm lớn một chút, thường hay trầm trọng hóa mọi vấn đề, vì vậy người làm lớn thường "phải bận" suốt, cho dù có đi nghỉ ngơi cũng nói là bận việc, là không có thời gian... Chẳng có giám đốc nào, bác sĩ nào, nhân viên cao cấp nào, hay một cha xứ nào dám treo bảng nơi làm việc của mình là "tạm đóng cửa 1 tuần để xả hơi." Thì ra nghỉ ngơi là một tội, thì ra nghỉ phép đi du lịch là không ổn...! Cũng như là thông lệ khi những ai đã làm ra nhiều tiền thì càng "phải bận bộn". Ngày nay, khi quan sát khắp nơi, hầu hết con người sống và đánh giá nhau theo hiệu năng và hiệu quả. Người càng làm ra nhiều tiền càng có tiếng nói, là tiếng nói mà có vẻ như "luật bất thành văn" vốn hầu hết mọi người hoan hô vỗ tay, cho dù tiếng nói ấy rất tầm thường hoặc thậm chí vô cùng sáo rỗng. Cũng thế, con người vẫn đang chọn bạn mà chơi, chọn đối tác mà làm ăn theo não trạng sàng lọc như thế. Thấy rõ nhất là trong một nơi làm việc mà có nhiều sắc tộc khác nhau, chúng ta sẽ thấy rõ trắng chơi với trắng, đen nói chuyện với đen, mũi tẹt quây quần cùng mũi tẹt... Ngay cả trong các nơi thờ phượng tôn giáo - nơi để yêu thương đại đồng, để hiệp nhất cầu nguyện - cũng không tránh được sự phân biệt nào đó nơi các tín đồ. Nếu vậy, trong Kinh Lạy Cha, thì phải đọc là "Lạy Cha của con ở trên Trời" và Kinh Lạy Cha sẽ không còn cầu nguyện với một Cha duy nhất nữa, mà sẽ nhiều "Cha ở trên Trời"!


Sân chơi ở trường tiểu học là trường dạy cho người "lớn" nhiều bài học vô giá. Nơi đó, các trẻ em dù với các màu da trắng đen vàng nâu đều đùa vui và tung tăng cùng nhau một cách hồn nhiên vô tư. Còn sân chơi của người "lớn" thì chẳng phải là sân chơi thật sự, nhưng mà là những chiếc mặt nạ che đậy cả khối hiềm tỵ, cạnh tranh, tiêu diệt, thống trị, danh lợi,... Trẻ con không phân biệt, không nghiêm túc và đạo mạo như người lớn. Thế giới của chúng là vui nhộn và hồn nhiên hiệp nhất. Chúng không ý niệm kẻ thù. Ai biết vui đùa đều có thể là bạn của chúng. Hình như người "lớn" không có can đảm như trẻ con, vì chúng có sao nói vậy, chúng nghĩ sao tỏ bày ra thế, chúng có thể chơi với rắn, bò cạp mà không bị giết chết!


Thế giới người lớn ngày nay đang gặp quá nhiều trục trặc, quá nhiều những con người lủng củng do "phản ứng phụ" của nền khoa học kỹ thuật hiện đại gây ra, nên con người cứ phải vừa thúc đẩy hiện đại hóa tất cả nhưng đồng thời cũng vẫn chữa lành theo kiểu đắp vá những lỗ hổng do chính sự hiện đại đó nảy sinh. Chẳng hạn, càng có nhiều bộ máy cao cấp, càng nảy sinh nhiều căn bệnh thể lý và tinh thần kéo theo, như cell-phone, Ipad, vi tính, máy điều hòa nhiệt độ...


Thiết tưởng, bài thơ Nơi Gặp Gỡ Tuyệt Diệu của Trẻ Em của đại thi hào Ấn Độ Rabindranath Tagore xem ra càng lúc càng là bài học thức tỉnh cho người lớn hôm nay:


Trẻ em gặp nhau trên bờ biển của các thế giới mênh mông vô tận.
Bên trên, bầu trời bao la, trong xanh và bất động.
Bên dưới, nước không ngừng chuyển động lao xao.
Trên bờ biển của các thế giới mênh mông vô tận, trẻ em gặp nhau, chạy nhảy và la giỡn.
Chúng xây những ngôi nhà cát và chơi với những vỏ sò trống rỗng.
Chúng kết những chiếc lá úa thành những con thuyền và vui cười thả trên biển bao la.
Trẻ em chơi trên bờ biển của các thế giới mênh mông vô tận.
Chúng không biết bơi, cũng chẳng biết quăng lưới.
Những người thợ lặn xuống biển mò ngọc trai, còn những nhà buôn xuôi ngược tàu thuyền, trong khi trẻ em lượm những hòn sỏi rồi lại ném đi.
Chúng không tìm kiếm kho báu, cũng chẳng biết quăng lưới.
Biển dâng lên thành tiếng cười rộ, còn bãi cát ánh lên nụ cười.
Sóng dữ ì ầm những khúc hát vô nghĩa như tiếng hát ru của người mẹ lúc đưa nôi. Biển chơi đùa với trẻ em, còn bãi cát ánh lên nụ cười.
Trẻ em gặp nhau trên bờ biển của các thế giới mênh mông vô tận.
Bão tố lang thang trên bầu trời không lối, thuyền bè bị đánh đắm trên biển cả không đường.
Thần tử ở khắp nơi, còn trẻ em cứ mải chơi đùa.
Trên bờ biển của các thế giới mênh mông vô tận là nơi gặp gỡ tuyệt vời của trẻ em. (Rabindranath Tagore - Gitanjali)


Con trẻ vui đùa với những nhà cát chúng làm ra, chúng múa nhảy hát ca chung quanh những thành quả của chúng, thế rồi chợt một cơn sóng ập đến và chỉ tích tắc chỗ ấy trở thành là một bãi cát phẳng lỳ không một dấu hiệu của thành quả nào nữa. Rồi bọn trẻ òa lên cười vui và lại cúi xuống xây tiếp... Biết rằng chỉ là dã tràng xe cát biển đông, nhưng bọn trẻ vẫn vui đùa và thật hạnh phúc bên thành quả "dã tràng" ấy. Trong khi chúng hòa nhập vào thiên nhiên, vào những gì là sức sống trời cho thì người lớn lại hòa nhập vào thế giới của sự chết, là những máy móc đang không ngừng phát ra các loại sóng điện tử, từ trường và những bức xạ xấu. Từ đây, vì thế, người lớn chẳng còn nhạy cảm về những sinh linh bé nhỏ đang làm tổ trên cành cây, chẳng còn rung động trước ngọn cỏ đang cúi rạp xuống cơn gió thoảng, chẳng còn ngạc nhiên trước một con kiến đang vác đồng loại trên miệng để đưa về tổ... Thế rồi, dĩ nhiên sẽ không còn cảm động trước một giọt máu đang lớn dần thành người mỗi phút giây trong dạ mẹ...!


Trẻ thơ là đùa vui. Đùa vui có nghĩa là quên quá khứ và dừng nghĩ về tương lai. Vậy, đùa vui chính là sống hiện tại. Trong bữa cơm gia đình nọ, khi mọi người lớn đang tranh luận về đề tài: "Ai sẽ là người ứng cử tổng thống Mỹ nhiệm kỳ tới?" Cuộc tranh luận rất sôi nổi và thậm chí có những lúc gay cấn. Tất cả mọi ý kiến và dự đoán đều xoay quanh về chiến tranh I-rắc, về kinh tế Mỹ vừa qua, về những cuộc bạo động hay khủng bố Tòa Tháp Đôi... Phút chốc, bầu khí trong bữa ăn trở nên căng thẳng và xung đột. Bất ngờ, một cậu bé 4 tuổi từ ngoài vườn, hai bàn tay ôm cẩn thận một chó con đang ngủ, chạy vào đến bên cha cậu đang tranh luận tại bàn ăn: "Ba ơi, Baby bị bệnh rồi!" Thế là, giờ đây cậu trở thành sự chú ý của tất cả mọi người lớn. Và đề tài là cậu bé và con chó đang bệnh. Cậu bé 4 tuổi như trở thành bậc thầy đưa tất cả người lớn về với quà tặng sự sống, về với hiện tại.


Vâng! Nghiệm lại trong một ngày sống, chúng ta thường nói nhiều hơn, tranh cãi nhiều hơn, phê phán nhiều hơn... nhưng lại rất ít hoặc không có giờ để chiêm ngắm, để quan sát, để chiêm niệm, và để thinh lặng. Có lẽ người lớn chúng ta cũng cần dành cho cuộc đời mình những thời khắc lắng đọng như dòng nhạc với những dấu lặng làm cho nội dung bản nhạc thêm sâu lắng và chuyển tải những gì nhạc sĩ mong muốn. Một bản nhạc không có dấu lặng hay những bài hát liên khúc sẽ chỉ là những tiếng ồn tra tấn làm cho thính giả thêm mệt mỏi và dễ khùng điên. Đúng vậy, thời đại hôm nay chính là bài "hét" liên tục không có dấu chấm nghỉ!


Đã đến lúc, mỗi người lớn chúng ta tạm dừng chân đôi chút, dù đang quằn qụai giữa dòng thác cuồn cuộn của cơm áo gạo tiền, của tranh đua hơn thiệt, để trở về với cõi thật - là quê nhà ấm êm và chất chứa ngập tràn yêu thương mà ai ai khi đã làm người cũng đều khát khao. Tạm dừng nghỉ làm người lớn trong phút chốc, để thấy được cái lung linh dịu vợi của quà tặng Thiên Chúa đang diễn ra từng giây phút cho hết thảy mọi người trên hành tinh này, mà bao lâu nay chúng ta đã đánh mất hoặc không muốn nhìn thấy, đó là Thiên Chúa - Chúa Tể Đất Trời - đang rất lặng lẽ ở với nhân loại qua cử chỉ giản dị và sâu lắng, là Bữa Tiệc Bẻ Bánh, Ngài đang mong mỏi nuôi sống con người vốn đói khát từ thẳm sâu lòng mình. Chỉ có Ngài, Đấng mới có thể lấp đầy mọi nỗi trống vắng lòng người, mới có thể làm no thỏa cơn đói khát khôn nguôi của kiếp nhân sinh.


Lạy Chúa Giêsu, hơn lúc nào hết, xin cho thế giới ngày hôm nay cảm nhận được quà tặng dịu vợi nhất trên tất cả mọi quà tặng và vinh quang trần gian, đó là Chúa trở thành Thịt và Máu qua tấm bánh nhỏ bé đơn sơ sau khi đôi bàn tay linh mục đọc lời truyền phép.


Vâng, lạy Cha chúng con ở trên trời, hãy thương xót tất cả chúng con vì cuộc khổ đau của Chúa Giêsu, để chúng con nhận ra rằng thế giới đang càng ngày bất ổn và có nhiều lủng củng trên mọi bình diện cuộc sống, do con người thời đại đang xây cho mình những "xe cát biển đông", đang nắm giữ và bảo vệ những chiếc "ghi-đông" của đời mình, do càng ngày con người hôm nay đang làm cho mình "lớn" dần, không còn muốn chân nhận giá trị vô giá và cao cả - trong hình ảnh thật là khiêm cung nhỏ bé là nam nữ tu sĩ - của ơn gọi thánh hiến và ơn gọi làm cho bánh và rượu trở thành Mình và Máu Thánh Chúa, để dưỡng nuôi hành tinh vốn đang quằn quại trong cơn đói khát sự sống trường sinh.


"Bà con thấy chưa, mất tất cả... mà phải câm, thế mà mất có cái ghi đông thì la rầm trời! Kỳ khôi quá!"


Thương lắm, những con người "lớn" ngày hôm nay!


Xin Cha thương xót chúng con và toàn thế giới, để quà tặng của Cha vẫn ở mãi với hành tinh chúng con qua ngày càng thêm nhiều bạn trẻ nam nữ can đảm sống đời thánh hiến. Amen.


Lm. Raphael Amore Nguyễn


(trích trong Đặc San Giáo Sĩ số 170, ra ngày 6/5/2012)

Thursday, May 3, 2012

Hoa Hồng Dâng Mẹ

Tuyển Tập Một Số Bài Hát Về Mẹ Maria
do Lm Nguyễn Sang thể hiện




01 Ave Maria - Huyền Linh



02 Khúc Hát Dâng Hoa - Hải Triều



03 Dâng Ngọn Lửa Hồng - Nhật Minh



04 Nguyện Cầu Cho Xứ Đạo - Lm Văn Chi



05 Xin Vâng - Lm Mi Trầm



06 Dao Ca Mẹ Diệu Hiền - Lm Văn Chi



07 Nữ Vương Mân Côi - Hải Linh



08 Tiếng Gọi Fatima - Phan-xi-cô



09 Con Xin Dâng Mẹ - Lm Văn Chi



10 Tấu Lạy Bà - Vinh Hạnh



11 Vòng Hoa Dâng Mẹ - Phan-xi-cô



12 Tiến Dâng Lên Mẹ - Trầm Hương



13 Bông Hồng Dâng Mẹ - Phan-xi-cô



14 Lời Mẹ Nhắn Nhủ - Lm Huyền Linh



15 Mẹ Là Bóng Mát - Phan-xi-cô



16 Đền Tạ Trái Tim Mẹ - Nguyễn Khác Tuần



17 Mẹ Nhân Loại - Phan-xi-cô



18 Kìa Bà Nào - Hoàng Diệp


Facebook Twitter Delicious Favorites More

 
Lên đầu trang
Xuống cuối trang